872. Núi Neru này không phân loại hạ liệt, ưu tú, hay trung bình. Núi Neru có sự hành xử không phân biệt. Nào, chúng ta nên lìa bỏ núi Neru.” 

Dầu tối ưu, hạ liệt, hoặc trung bình,
Ne-ru cũng chẳng thể nào suy xét,
Vậy, hỡi ôi! Chúng ta đành từ biệt
Núi Ne-ru không biết lẽ biệt phân.

873. Āsāvatī nāma latā jātā cittalatāvane, tassā vassasahassena ekaṃ nibbattate phalaṃ, taṃ devā payirupāsanti tāva dūraphalaṃ satiṃ.

873. “Dây leo tên āsāvatī mọc ở khu vườn Cittalatāvana (thuộc cõi trời), một ngàn năm, nó chỉ sanh ra một trái. Chư Thiên trông chừng cây ấy cho đến khi có được trái cây lâu năm (mới ra quả ấy).

À-sà-ti mọc trên vườn Thiên giới
Một ngàn năm chỉ sinh trái một lần,
Chư Thiên hằng kham nhẫn mãi chờ trông.

874. Āsiṃseva tuvaṃ rāja āsā phalavatī sukhā, āsiṃsetheva so pakkhī āsiṃsetheva so dijo.

874. Tâu bệ hạ, bệ hạ hãy luôn ước nguyện. Niềm ao ước có được sự kết trái là hạnh phúc. Loài chim ấy cũng luôn ước nguyện, loài lưỡng sanh ấy cũng luôn ước nguyện.

Quá hy vọng, Ðại vương, đầy ngon ngọt,
Chim hy vọng không bao giờ tổn thất,
Nó đạt tròn mong ước dẫu xa vời.

875. Tassa cāsā samijjhittha tāva dūragatā satī, āsiṃseva11 tuvaṃ rāja āsā phalavatī sukhā.

875. Và niềm ao ước của con chim đã được thành tựu dầu cho đã đi đến nơi xa xôi. Tâu bệ hạ, bệ hạ hãy luôn ước nguyện. Niềm ao ước có được sự kết trái là hạnh phúc.”

Tâu Ðại vương, quá hy vọng ngọt bùi!
Cứ hy vọng, Ðại vương, hy vọng mãi.

876. Sampesi kho maṃ vācāya na ca sampesi kammunā, mālā sereyyakasseva vaṇṇavantā agandhikā.

876. “Nàng quả thật đã làm ta hài lòng với lời nói, nhưng chưa làm hài lòng bằng hành động, tựa như tràng hoa sereyyaka có sắc không hương.

Lời nói nàng nghe quả thật dịu êm,
Song hành động không thỏa lòng mong đợi.
Hoa hữu sắc vô hương là cỏ dại,

877. Aphalaṃ madhuraṃ vācaṃ yo mittesu pakubbati, adadaṃ avissajaṃ bhogaṃ sandhi tenassa jīrati.

877. Người nào bày tỏ lời nói ngọt ngào với các bạn bè nhưng không có kết quả, không bố thí, không ban phát của cải, sự liên kết về tình bạn với người ấy bị phai nhạt.

Lời hứa kia dẫu đẹp chẳng thi hành
Với bạn thân, ta phải ném cho nhanh,
Chẳng đem tặng, cứ để dành mãi mãi,
Tình bạn kia tất nhiên là suy thoái.

878. Yaṃ hi kayirā taṃ hi vade yaṃ na kayirā na taṃ vade, akarontaṃ bhāsamānaṃ parijānanti paṇḍitā.

878. Có thể làm điều gì thì nên nói điều ấy, không thể làm điều gì thì không nên nói điều ấy. Các bậc sáng suốt biết rõ người nói mà không làm.

Ta chỉ nên hứa trước việc mình làm,
Ðừng hứa suông những việc chẳng đảm đang.
Nếu ta nói mà không làm phận sự,
Các trí nhân xét xem liền thấy rõ.

879. Balañca vata me khīṇaṃ pātheyyañca na vijjati, saṅke pāṇūparodhāya handandāni vajāmahaṃ.

879. Thật sự sức lực của trẫm bị cạn kiệt, và lương thực dự trữ không còn, trẫm hoài nghi về sự tiêu tùng của mạng sống. Nào, giờ đây, trẫm ra đi.”

Ðạo quân ta hao tổn, cạn kho lương,
Ta hoài nghi đời sống đã suy tàn,
Ðã đến lúc ra đi, đành từ biệt.



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada