860. Naheva vedā aphalā bhavanti sasaṃyamaṃ caraṇañceva saccaṃ, kittiṃ hi pappoti adhicca vede santaṃ punoti caraṇena danto ”ti.

860. “Các sự hiểu biết không hẳn là không có kết quả, chính sự thực hành với sự tự chế ngự là chân lý. Bởi vì người sau khi học tập các sự hiểu biết thì đạt được danh tiếng, còn với sự thực hành, người đã được huấn luyện đạt đến sự an tịnh.” 

Không, Vệ-đà không hoàn toàn vô dụng,
Dù điều thân tu tập: đạo chánh chân,
Học Vệ-đà vẫn mang lại vinh quang,
Song ta đạt Tối an nhờ chánh hạnh.

861. Paṅko ca kāmā palipo ca kāmā bhayañca metaṃ timūlaṃ pavuttaṃ, rajo ca dhūmo ca mayā pakāsitā hitvā tuvaṃ pabbaja brahmadatta.

861. “Các dục là bùn nhơ, và các dục là bãi lầy, và sự sợ hãi với ba gốc rễ này đã được ta nói đến, bụi bặm và khói mù đã được ta giảng giải, sau khi từ bỏ, này Brahmadatta, xin đức vua hãy xuất gia.”

Dục lạc chỉ là đám bùn dơ bẩn
"Nỗi kinh hoàng ba gốc" được gọi là,
Ta bảo rằng khói bụi với sương sa,
Hãy bỏ chúng, xuất gia lìa thế tục.

862. Gathito ca ratto adhimucchito ca kāmesvāhaṃ brāhmaṇa bhiṃsarūpaṃ, taṃ nussahe jīvikattho pahātuṃ kāhāmi puññāni anappakāni.

862. “Này Bà-la-môn, trẫm bị vướng mắc, bị luyến ái, bị mê đắm trong các dục. Là người tầm cầu mạng sống, trẫm không thể dứt bỏ dục có dáng vẻ hung tợn ấy. Trẫm sẽ làm không ít các phước thiện.”

Trẫm say đắm, lún sâu bùn tham dục,
Bà-la-môn, dục lạc đáng kinh thay,
Song yêu đời, trẫm không thể bỏ ngay,
Trẫm xin nguyện suốt đời làm thiện sự.

863. Yo atthakāmassa hitānukampino ovajjamāno na karoti sāsanaṃ, idameva seyyo iti maññamāno punappunaṃ gabbhamupeti mando.

863. “Trong khi được giáo huấn bởi người có lòng thương tưởng đến điều lợi ích, bởi người có lòng mong muốn sự tiến bộ, kẻ nào không làm theo lời giáo huấn, trong khi nghĩ rằng: ‘Chính điều này là tốt hơn,’ kẻ ngu muội đi đến thai bào lần này đến lần khác.
 

Ai bác bỏ lời bạn hiền khuyên nhủ,
Thương xót và mong bạn tránh đọa đày,
Cứ tưởng rằng: "Cõi thế tốt lành thay",
Sẽ không dứt tái sinh đầu thai mãi.

864. So ghorarūpaṃ nirayaṃ upeti subhāsubhaṃ muttakarīsapūraṃ, sattā sakāye na jahanti giddhā ye honti kāmesu avītarāgā.

864. Kẻ ấy đi đến bào thai, ví như địa ngục, có dáng vẻ ghê rợn, nơi không đẹp đẽ đối với những người tốt lành, bị ngập tràn bởi nước tiểu và phân. Những kẻ nào có sự luyến ái chưa được xa lìa khỏi các dục, những kẻ ấy bị dính mắc, bị thèm khát, chúng không từ bỏ bụng mẹ.

Nơi đày đọa đáng kinh: phần kẻ ấy
Ðầy vật dơ, bị người thiện chê bai,
Kẻ tham kia dục vọng chẳng hề rời,
Thân xác chứa ngập đầy mầm nhục dục.

865. Mīḷhena littā ruhirena makkhitā semhena littā upanikkhamanti, yaṃ yaṃ hi kāyena phusanti tāvade sabbaṃ asātaṃ dukkhameva kevalaṃ.

865. Chúng chào đời, bị lấm lem bởi phẩn, bị bôi trét bởi máu, bị lấm lem bởi đàm. Vào khi ấy, bất cứ cái gì chúng chạm đến bằng thân, tất cả đều không có khoái lạc, toàn bộ chỉ là khổ đau.”

Ðầu máu mủ, vật hôi tanh thế tục,
Mọi hữu tình đều phải chịu tái sinh,
Những vật gì xúc chạm suốt đời mình,
Chỉ cốt để đem khổ đau trần giới.



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada