854. Bhattaṃ bhinnaṃ hatā bhariyā gabbho ca patito chamā,  migova jātarūpena na tenatthaṃ avaḍḍhitun ”ti.

854. Bữa ăn bị vỡ tan, người vợ bị đánh, và bào thai bị sẩy rơi ở mặt đất. Tựa như con thú với khổi vàng, gã chèo đò không làm tăng trưởng lợi ích với lời khuyên bảo ấy.” 

Cơm đổ, vợ y đánh tả tơi,
Thai nhi chết trước lúc ra đời,
Lời khuyên cho kẻ này vô dụng
Như vàng ròng tặng thú hoang thôi.

855. Mā tāta kujjhi na hi sādhu kodho bahumpi te adiṭṭhaṃ assutañca, mātā pitā disatā setaketu ācariyamāhu disataṃ pasatthā.

855. “Này con, chớ nóng giận bởi vì sự giận dữ là không tốt,
cũng có nhiều việc con chưa được thấy và chưa được nghe.
Này Setaketu, mẹ cha là phương hướng,
các bậc xuất chúng đã nói thầy dạy học là phương hướng.

Hiền hữu, hận sân chẳng lợi gì,
Trí cao vượt quá chuyện mình nghe:
"Một phương" phải hiểu là cha mẹ,
"Thầy giáo" được dùng chí hướng kia.

856. Agārino annadapānavatthadā avhāyikā tampi disaṃ vadanti, esā disā paramā setaketu yaṃ patvā dukkhī sukhino bhavanti.

856. Các gia chủ, những người cho cơm ăn, cho nước uống và vải mặc, các bậc Thánh nhân nói hạng người ấy cũng là phương hướng. Này Setaketu, phương hướng kia là tuyệt đối (Niết Bàn), sau khi đạt đến nơi ấy, những kẻ khổ đau trở nên an lạc.”  

"Gia chủ" cho y phục, uống ăn,
Cửa thường rộng mở, chính là "phương",
Còn "phương" trong nghĩa cao siêu nhất:
"Trạng thái vô ưu, lạc Niết-bàn".

857. Kharājinā jaṭilā paṅkadantā dumukkharūpā ye me japanti mante, kacci nu te mānusike payoge idaṃ vidū parimuttā apāyā.

857. “Có y da dê thô cứng, tóc bện, có răng bị đóng bợn, có bộ dạng lấm lem dơ bẩn, các vị này lẩm nhẩm các chú thuật, phải chăng các vị ấy, trong sự rèn luyện thuộc về nhân gian, là những vị hiểu biết thế gian này, và đã được hoàn toàn thoát khỏi các đọa xứ?"

Hàm răng bẩn, áo da dê, tóc bện,
Miệng thì thầm kinh thánh, dáng bình an,
Chẳng từ nan mọi phương tiện hiền nhân,
Chắc đã đạt Chân như và Giải thoát.

858. Pāpāni kammāni karitva rāja bahussuto neva careyya dhammaṃ, sahassavedāpi na taṃ paṭicca dukkhā pamuñce caraṇaṃ apatvā.

858. “Tâu bệ hạ, sau khi làm các hành động xấu xa, người có nhiều kiến thức còn có thể không thực hành thiện pháp. Người đã không đạt được sự thực hành, dầu có một ngàn sự hiểu biết, không vì điều ấy mà có thể thoát khỏi khổ đau.”

Một trí nhân có thể làm ác hạnh,
Một trí nhân có thể chẳng chánh chân,
Ngàn câu Vệ-đà chẳng tạo an toàn
Khi việc hỏng, hoặc cứu người lâm nạn.

859. Sahassavedopi na taṃ paṭicca dukkhā pamuñce caraṇaṃ apatvā, maññāmi vedā aphalā bhavanti sasaññamaṃ caraṇaññeva saccaṃ.

859. “Người đã không đạt được sự thực hành, dầu có một ngàn sự hiểu biết, không vì điều ấy mà có thể thoát khỏi khổ đau. Ta nghĩ rằng các sự hiểu biết là không có kết quả, chính sự thực hành với sự tự chế ngự là chân lý.

Một trí nhân có thể làm ác hạnh,
Một trí nhân có thể chẳng chánh chân,
Ngài bảo Vệ-đà là vật không cần,
Chỉ tu tập điều thân là thiết yếu.



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada