848. Māssu kujjhi bhūmipati māssu kujjhi rathesabha, kuddhaṃ appaṭikujjhanto rājā raṭṭhassa pūjito.
848. “Tâu vị chúa tể của trái đất, xin bệ hạ chớ nóng giận. Tâu đấng thủ lãnh xa binh, xin bệ hạ chớ nóng giận. Trong khi không nóng giận lại với kẻ đã nổi nóng, đức vua được xứ sở tôn vinh.
Ðừng bao giờ giận, hỡi Minh quân,
Chúa tể trần gian, chớ hận sân,
Ðừng lấy lòng sân bù mối hận
Quân vương như vậy đáng suy tôn.
849. Gāme vā yadi vāraññe ninne vā yadi vā thale, sabbattha-m-anusāsāmi māssu kujjhi rathesabha.
849. Dầu ở làng hoặc ở rừng, dầu ở đất trũng hoặc ở đất bằng, ở tất cả mọi nơi, thần khuyên bảo rằng, tâu đấng thủ lãnh xa binh, xin bệ hạ chớ nóng giận.”
Dù ở rừng xanh hoặc ở làng,
Ở trên bờ biển, giữa trùng dương,
Chớ bao giờ giận, ta khuyên nhủ
Mãi mãi từ nay, hỡi Ðại vương.
850. Avāriyapitā nāma ahu gaṅgāya nāviko, pubbe janaṃ tārayitvā pacchā yācati vetanaṃ, tenassa bhaṇḍanaṃ hoti na ca bhogehi vaḍḍhati.
850. “Người cha của nàng Avāriyā đã là người chèo đò ở sông Gaṅgā. Gã đưa người qua sông trước, sau đó mới đòi hỏi tiền công. Vì thế, có sự cãi lộn dành cho gã, và gã không làm gia tăng các của cải.
Chú A-và-ri-ya,
Thuyền lướt sóng Hằng Hà,
Trước tiên đưa du khách,
Rồi mới hỏi tiền phà,
Do vậy ăn đòn mãi,
Thật xui xẻo, dại khờ!
851. Atiṇṇaṃyeva yācassu apāraṃ tāta nāvika, añño hi tiṇṇassa mano añño hoti taresino.
851. Này người chèo đò thân mến, ông hãy đòi hỏi khi người ta còn chưa qua đến bờ bên kia. Bởi vì, người đã qua sông có ý nghĩ khác, người tầm cầu sự qua sông có ý nghĩ khác.
Hỏi tiền trước lúc chở qua sông,
Chớ đến bờ kia hỏi nhọc công,
Chú chở bá nhơn nên bá tánh,
Tánh tình thay đổi trước sau luôn.
852. Gāme vā yadi vāraññe ninne vā yadi vā thale, sabbatthamanusāsāmi māssu kujjhi nāvika.
852. Dầu ở làng hoặc ở rừng, dầu ở đất trũng hoặc ở đất bằng, ở tất cả mọi nơi, ta khuyên bảo rằng, này người chèo đò, xin ông chớ nóng giận.”
Hỏi tiền trước lúc chở qua sông,
Chớ đến bờ kia hỏi nhọc công,
Chú chở bá nhơn nên bá tánh,
Tánh tình thay đổi trước sau luôn.
853. Yāyevānusāsaniyā rājā gāmavaraṃ adā, tāyevānusāsaniyā nāviko paharī mukhaṃ.
853. “Chỉ với lời khuyên bảo, đức vua đã ban cho ân huệ một ngôi làng, với chính lời khuyên bảo ấy, người chèo đò đã đánh vào mặt.
Vua nghe lời khuyến thiện, đã ban
Lợi tức phần ta cả một làng,
Chú lái đò nghe lời khyyến thiện
Lại đánh người cho ngã xuống đàng.
Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada