829. Sohaṃ abbūḷhasallosmi vītasoko anāvilo, na socāmi na rodāmi tava sutvāna vāsavā ”ti.
829. Tôi đây, có mũi tên đã được rút ra, có sự sầu muộn đã được xa lìa, không bị vẩn đục. Thưa Thiên chủ, sau khi lắng nghe ngài, tôi không sầu muộn, không khóc lóc.”
Mũi tên vừa được nhổ ra,
Lòng ta tràn ngập an hòa vui tươi,
Lắng nghe Ðế Thích nhủ lời,
Ta không còn phải chơi vơi khổ sầu.
830. Kuhiṃ gatā kattha gatā iti lālappatī jano, ahameva eko jānāmi udapāne mūsikā hatā. 8
30. “‘Nó đã đi đâu? Nó đã đi nơi nào?’ người ta lải nhải như thế. Chỉ một mình trẫm biết, con chuột đã bị chết ở trong giếng nước.”
Bọn chúng hỏi to: Nó ở đâu?
Chuột ơi, mày đã trốn nơi nào?
Việc này chỉ một mình ta biết
Nó đã chết nằm trong giếng sâu.
831. Yathetaṃ iti cīti ca gadrabhova nivattasi, udapāne mūsikaṃ hantvā yavaṃ bhakkhetum icchasi.
831. “Giống như việc ngươi đi tới đi lui chỗ này và chỗ khác tựa như con lừa, sau khi đã giết chết con chuột ở trong giếng nước, có phải ngươi muốn nhai lúa mạch?”
Giống như con vật đẩy xe đi,
Ngươi cứ xoay qua lại trở về,
Ngươi đã giết xong con Chuột ấy,
Nay thèm ăn Lúa mạch, ta nghi.8
32. Daharo cāsi dummedha paṭhamuppattiko susu, dīghametaṃ samāsajja na te dassāmi jīvitaṃ.
832. “Này kẻ ngu muội, ngươi là con nít, còn non trẻ, ở giai đoạn đầu của cuộc đời. Sau khi cầm lấy vật có cán dài này, ta sẽ không cho ngươi toàn mạng sống.”
Ngươi là thằng nhãi quá ngu ngơ
Như món đồ chơi với trẻ thơ,
Cầm vật cán dài hình chiếc muỗng,
Thằng kia, ta quyết giết bây giờ.
833. Nāntalikkhabhavanenāhaṃ nāṅgaputtasirena vā, puttena hi patthayito silokehi pamocito.
833. “Ta chưa ngự đến cung điện ở cõi trời, hoặc chưa thoát khỏi sự liên hệ với thân thể của ta hoặc với đứa con trai, tuy nhiên ta bị chính đứa con trai cầu mong cho chết và ta được thoát chết nhờ những bài thơ.
Ta chưa giải thoát tự do
Bằng đường lạc thú an cư cõi trời.
Hoặc nhờ hiếu hạnh sáng ngời;
Ðến khi con trẻ toan đòi mạng ta,
Cứu nguy nhờ mấy vần thơ,
Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada