822. Nahi verena verāni sammantīdha kudācanaṃ, averena ca sammanti esa dhammo sanantano ”ti.
822. Ở thế gian này, các sự thù hận không bao giờ được lặng yên bởi sự hận thù, và chúng được lặng yên bởi sự không thù hận; điều này là quy luật cổ xưa.”
Giận sẽ nguôi và hài hòa chung sống.
Xóa căm hờn đâu phải bởi căm hờn,
Xóa căm hờn chính là bởi yêu thương,
Ðấy là luật niên trường cho an lạc.
823. Agārā paccupetassa anāgārassa te sato, samaṇassa na taṃ sādhu yaṃ petamanusocasi.
823. “Ông là người đã rời khỏi gia đình, sống không nhà, là người tốt, là vị Sa- môn, đối với ông việc ấy là không tốt, là việc ông sầu muộn về người đã từ trần.
Sầu thương vật đã chết rồi,
Hỡi người khổ hạnh sống đời độc cư.
Thoát dây tục lụy xuất gia,
Giờ đây phát bệnh tâm tư buồn phiền!
824. Saṃvāsena have sakka manussassa migassa vā, hadaye jāyate pemaṃ taṃ na sakkā asocituṃ.
824. “Thật vậy, thưa Thiên chủ Sakka, do việc sống chung với con người hay con thú, sự yêu thương sanh khởi trong tim; không thể nào không sầu muộn về người (hay thú) ấy.”
Nếu người bầu bạn thú hiền,
Tâu ngài Ðế Thích ở trên cõi trời,
Buồn phiền vì mất bạn chơi,
Tuôn dòng nước mắt sẽ vơi nỗi sầu.
825. Mataṃ marissaṃ rodanti ye rudanti lapanti ca, tasmā tvaṃ isi mā rodi roditaṃ moghamāhu santo.
825. “Những người nào khóc lóc người đã chết và người sẽ chết, những người ấy sẽ mãi khóc lóc và than vãn. Này ẩn sĩ, vì thế, ông chớ khóc lóc. Các hiền nhân đã nói việc khóc lóc là vô ích.
Người đời lắm kẻ ước ao
Mỗi khi vật mất, kêu gào tiếc thương.
Thôi đừng khóc nữa, trí nhân,
Thánh hiền vẫn bảo hoài công thôi mà.
826. Roditena have brahme mato peto samuṭṭhahe, sabbe saṅgamma rodāma aññamaññassa ñātake.
826. Thật vậy, này Bà-la-môn, nếu người đã chết, người đã qua đời có thể sống lại nhờ việc khóc lóc, thì tất cả chúng ta hãy tụ hội lại và khóc lóc cho các thân quyến của người này người khác.”
Nếu nhờ nước mắt tuôn ra
Chúng ta có thể vượt qua tử thần,
Thì ta quyết phải hợp quần
Ðể mà cứu mọi vật thân nhất trần.
827. Ādittaṃ vata maṃ santaṃ ghatasittaṃva pāvakaṃ, vārinā viya osiñcaṃ sabbaṃ nibbāpaye daraṃ.
827. “Quả thật, trong khi tôi đang bị thiêu đốt tựa như ngọn lửa được rưới bơ lỏng, ngài có thể dập tắt tất cả nỗi buồn bực như là đang rưới nước xuống.
Ví như ngọn lửa nóng hừng
Ðổ thêm bơ sữa cháy bừng thật cao,
Ðược vòi nước lạnh tưới vào,
Ngài vừa dập tắt nỗi sầu của ta.
828. Abbahi vata me sallaṃ yamāsi hadayanissitaṃ, yo me sokaparetassa puttasokaṃ apānudi.
828. Khi tôi bị sầu muộn chế ngự, người nào đã xua đi nỗi sầu muộn về người con trai của tôi, người ấy quả thật đã rút ra mũi tên đã cắm vào trái tim của tôi.
Lòng ta nhức nhối xót xa
Vì tên sầu não xuyên qua kinh hoàng.
Ngài đã chữa trị vết thương,
Và ngài hồi phục đời thường cho ta.
Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada