791. Yañca jaññā kule jātaṃ gabbhe tittaṃ amacchariṃ, tena sakhiñca mittañca dhīro sandhātumarahatī ”ti.
791. Và nếu biết người nào đã được sanh ra trong gia đình danh giá, được nuôi dưỡng đầy đủ lúc ở bào thai, không bỏn xẻn, bậc sáng trí có thể kết giao bạn bè và thân hữu với người ấy.”
Nhưng nếu ai vui vẻ sống trong nhà
Hạng thanh cao, chịu đem của trao ra,
Thì sẽ được người khôn giao kết chặt.
792. Madhuvaṇṇaṃ madhurasaṃ madhugandhaṃ visaṃ ahu, gumbiyo ghāsamesāno araññe odahī visaṃ.
792. “Chất độc có màu sắc của mật ong, có vị của mật ong, có hương của mật ong. Dạ-xoa Gumbiya, với sự tìm kiếm thực phẩm, đã đặt để chất độc ở trong rừng.
Thuốc độc giống như mật ngọt ngào
Khi ta ngửi, nếm hoặc nhìn vào,
Gum-bi-ya đã bày ra đó,
Mục đích hại người thật hiểm sao!
793. Madhu iti maññamānā ye taṃ visamasāyisuṃ, tesaṃ taṃ kaṭukaṃ āsi maraṇaṃ tenupāgamuṃ.
793. Những kẻ nào nghĩ rằng: ‘Mật ong’ rồi đã ăn vào chất độc ấy. Đối với những kẻ ấy, chất ấy có vị cay. Họ đã đi đến cái chết vì chất độc ấy.Hễ kẻ nào ham ăn hưởng mật,
Ăn vào, phải chết giữa rừng sâu.
794. Ye ca kho paṭisaṅkhāya visaṃ taṃ parivajjayuṃ, te āturesu sukhitā ḍayhamānesu nibbutā.
794. Và quả thật những người nào, sau khi xem xét, đã lánh xa chất độc ấy, những người ấy được an lạc, được thoát khỏi các cơn bệnh đang thiêu đốt.
Những ai khôn tránh xa mồi nhử,
Giữ được an lành, khỏi khổ đau.
795. Evameva manussesu visaṃ kāmā samohitā, āmisaṃ bandhanaṃ cetaṃ maccuvaso guhāsayo.
795. Tương tự y như thế ở loài người, chất độc là các dục đã được phô bày, và vật chất này là sự trói buộc, quyền lực của thần chết có sự trú ngụ ở thân xác này.
Tham dục cũng như mồi dục vậy,
Ðược bày ra để hại con người,
Tấm lòng tham ái thường khi vẫn
Phản bội, đưa người đến chết thôi.
Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada