786. Seṇimokkho palābhena vallabhānaṃ nayena ca, jagatiṃ jagatīpālā āvasanti vasundharan ”ti.

786. Nhờ việc thu phục các tướng lãnh của quân đội, và nhờ vào kế hoạch của các cận thần, các vị chúa tể trái đất cư ngụ ở trái đất, nơi cất giữ nhiều của cải.”

Nhờ chinh phục các tướng lãnh giữa chốn ba quân và lời bằng hữu khuyên răn, các vị chúa tể trên thế gian ngự trị cả thế gian và hưởng thụ trọn vẹn.

787. Dhuttomhi samma sumukha jūte akkhaparājito, harehi ambapakkāni viriyante bhakkhayāmase.

787. “Này anh bạn có khuôn mặt đẹp, ta là kẻ đánh bạc, bị thua vì những con súc sắc ở sòng bạc. Bạn hãy ném xuống những trái xoài chín, chúng ta sẽ thọ hưởng sự nỗ lực của bạn.”

Này ta nằm đây, Khỉ xinh đẹp hỡi,
Như người chơi bị súc sắc phá tàn,
Hãy ném xoài đây; Ta biết rõ ràng
Ta sống được nhờ bạn nhiều mưu kế.

788. Alikaṃ vata maṃ samma abhūtena pasaṃsasi, ko te suto vā diṭṭho vā sumukho nāma makkaṭo.

788. “Này ông bạn, quả thật ông ca ngợi không đúng về ta bằng điều dối trá; ông đã nghe hoặc đã thấy con khỉ nào được gọi là có khuôn mặt đẹp?

Lời bạn khen, âm thanh vô nghĩa thế, Khỉ đẹp xinh: Bao giờ kiếm cho ra!

789. Ajjāpi me tvaṃ manasi yaṃ maṃ tvaṃ ahituṇḍika, dhaññāpaṇaṃ pavisitvā matto chātaṃ hanāsi maṃ.

789. Này người bắt rắn, hôm nay vẫn còn trong trí của ta về việc ông đối xử với ta, sau khi đi vào tiệm bán ngũ cốc, ông, bị say rượu, đã đánh đập ta lúc ta đang bị đói khát.

Xin hỏi ai trong hàng quán say sưa,
Nay bỏ đói và đánh ta đau vậy?

790. Tāhaṃ saraṃ dukkhaseyyaṃ api rajjampi kāraye, nevāhaṃ yācito dajjaṃ tathā hi bhayatajjito.

790. Trong khi ta nhớ lại việc nằm dài khổ sở, thậm chí ông có cho ta làm vua, ta sẽ không bao giờ ban thưởng cho ngươi dầu được cầu xin, bởi vì ta đã bị kinh hoàng vì sợ hãi như thế ấy.

Anh dụ rắn hỡi, ta đây nhớ lại
Giường khổ đau nơi ta phải nằm vào.
Nếu có ngày ta lên nắm ngôi cao,
Chớ xin ta rỉ chút nào ân huệ.Vì ta nhớ bạn từng hung ác thế,



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada