725. Sāmāpi kho candanalittagattā siṅguva sobhañjanakassa uggatā, adisvāva kālaṃ karissāmi ubbariṃ taṃ me tato dukkhataraṃ bhavissatī ”ti.
725. Nàng có làn da màu vàng, có thân thể được bôi trầm hương, tựa như nhánh non của cây sobhañjana đã được vươn lên, ta sẽ qua đời không được nhìn thấy nàng Ubbarī,
điều ấy sẽ làm cho ta đau khổ hơn là cái chết.”
Ub-ba-rì mặn mà,
Ôi hoàng hậu của ta,
Dáng người trông yểu điệu,
Như cành Mo-rin-ga.
Tay chân nàng thơm ngát,
Ướp dầu hương chiên-đàn,
Làm sao ta sống nổi,
Khi chẳng thấy được nàng?
Ôi chết không tàn khốc
Bằng nỗi này đau thương!
726. Uragova tacaṃ jiṇṇaṃ hitvā gacchati saṃ tanuṃ, evaṃ sarīre nibbhoge pete kālakate sati.
726. “Giống như con rắn từ bỏ lớp vỏ già cỗi, phần thân thể của mình, rồi ra đi, tương tự như thế ấy khi thân xác không còn lợi ích, khi là người đã ra đi, đã từ trần.
Ðời người bỏ xác ra,
Khi niềm vui sống qua,
Như rắn kia vẫn thế,
Thường lột vỏ thay da.
727. Ḍayhamāno na jānāti ñātīnaṃ paridevitaṃ, tasmā etaṃ na socāmi gato so tassa yā gati.
727. Người đang bị đốt cháy không hay biết việc than khóc của các thân quyến; do đó tôi không sầu muộn về việc này, người ấy đã đi đến cảnh giới dành cho người ấy.”
Không lời nào thương tiếc
Chạm đến tro người chết.
Sao tôi phải buồn thương?
Kẻ ấy đi tiếp đường.
728. Anabbhito tato āga ananuññāto ito gato, yathā gato tathā gato tattha kā paridevanā.
728. “Không được gọi, từ nơi kia nó đã đi đến; chưa được phép, từ nơi này nó đã ra đi. Nó đã đi đến như thế nào thì nó đã ra đi như thế ấy, trong trường hợp ấy sự than vãn có lợi ích gì?
Không gọi nó đến đây,
Chẳng sai nó đi ngay,
Nó đi như nó đến,
Sao lại phải sầu cay?
729. Ḍayhamāno na jānāti ñātīnaṃ paridevitaṃ, tasmā etaṃ na socāmi gato so tassa yā gati.
729. Người đang bị đốt cháy không hay biết việc than khóc của các thân quyến; do đó tôi không sầu muộn về việc này, người ấy đã đi đến cảnh giới dành cho người ấy.”
Không lời nào thương tiếc,
Chạm đến tro người chết,
Sao tôi phải buồn thương?
Kẻ ấy đi tiếp đường.
730. Sace rode kisā assaṃ tassā me kiṃ phalaṃ siyā, ñātimittasuhajjānaṃ bhiyyo no aratī siyā.
730. “Nếu tôi khóc, tôi sẽ trở nên tiều tụy; trong trường hợp ấy liệu có được kết quả gì cho tôi? (Việc ấy) còn có thể làm tăng thêm sự ưu sầu cho quyến thuộc bạn bè thân hữu của chúng tôi.
Dù nhịn đói, khóc than,
Ích gì được cho con,
Ôi, bà con thân thuộc,
Sẽ nhiều đau khổ hơn.
731. Ḍayhamāno na jānāti ñātīnaṃ paridevitaṃ, tasmā etaṃ na socāmi gato so tassa yā gati.
731. Người đang bị đốt cháy không hay biết việc than khóc của các thân quyến; do đó tôi không sầu muộn về việc này, người ấy đã đi đến cảnh giới dành cho người ấy.”
Không lời nào thương tiếc,
Chạm đến tro người chết.
Sao còn phải buồn thương?
Kẻ ấy đi tiếp đường.
732. Yathāpi dārako candaṃ gacchantamanurodati, evaṃ sampadamevetaṃ yo petamanusocati.
732. “Cũng giống như đứa bé trai khóc lóc đòi mặt trăng đang di chuyển, người thương tiếc kẻ đã quá vãng có sự thành tựu y như vậy.
Như con trẻ kêu gào,
Ðòi vô vọng trăng cao,
Khóc than người yêu mất,
Người đời ngớ ngẩn sao!
733. Ḍayhamāno na jānāti ñātīnaṃ paridevitaṃ, tasmā etaṃ na socāmi gato so tassa yā gati.
733. Người đang bị đốt cháy không hay biết việc than khóc của các thân quyến; do đó tôi không sầu muộn về việc này, người ấy đã đi đến cảnh giới dành cho người ấy.”
Không lời nào thương tiếc,
Chạm đến tro người chết.
Sao tôi lại buồn thương?
Kẻ ấy đi tiếp đường.
734. Yathāpi udakakumbho bhinno appaṭisandhiyo, evaṃ sampadamevetaṃ yo petamanusocati.
734. “Này người Bà-la-môn, cũng giống như lọ nước đã bị vỡ, không thể hàn gắn lại, người thương tiếc kẻ đã quá vãng có sự thành tựu y như vậy.
Một bình đất đã vỡ,
Ai ráp lại được vào,
Khóc than cho người chết,
Chỉ chuốc thất bại vào.
Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada