12. Nisamma khattiyo kayirā nānisamma disampati, nisamma kārino rañño yaso kitti ca vaḍḍhatī ”ti.
712. Vị Sát-đế-lỵ nên hành động sau khi cân nhắc. Bậc chúa tể không thể không cân nhắc. Đối với vị vua có hành động đã được cân nhắc, danh vọng và tiếng tăm tăng trưởng.”
Chiếu vương phán một lời
Cân nhắc thật hẳn hoi,
Chính chuyên lời phán ấy
Vang danh mãi trên đời.
713. Kinnu santaramānova lāyitvā haritaṃ tiṇaṃ, khāda khādāti vilapi gatasattaṃ jaraggavaṃ.
713. “Tại sao con lại phải vội vàng đi cắt cỏ xanh tươi và nói lảm nhảm với con bò già có mạng sống đã lìa rằng: ‘Hãy ăn đi, hãy ăn đi.’
Sao con lại vội mang
Cỏ mới cắt ngọt ngon
Cho con vật đã chết,
Lại kêu "Dậy mà ăn"?
714. Na hi annena pānena mato goṇo samuṭṭhahe, tvañca tucchaṃ vilapasi yathā taṃ dummatī tathā.
714. Bởi vì con bò đã chết không thể nào sống lại nhờ vào cơm ăn nước uống. Và con nói lảm nhảm một cách vô ích như là kẻ điên khùng.”
Không có thức ăn gì
Hồi sinh một bò chết,
Lời con vớ vẩn thật,
Và do bởi mê si.
715. Tatheva tiṭṭhati sīsaṃ hatthapādā ca vāḷadhi, sotā tatheva tiṭṭhanti maññe goṇo samuṭṭhahe.
715. “Đầu, các chân trước sau, và đuôi tồn tại y như thế, hai lỗ tai tồn tại y như thế, con nghĩ rằng con bò có thể sống lại được.
Con vật này hẳn rồi
Vẫn còn đường sống lại,
Vì đủ cả đầu đuôi
Và bốn chân còn đấy.
716. Nevayyakassa sīsaṃ vā hatthapādā na dissare, rudaṃ mattikathūpasmiṃ nanu tvaññeva dummati.
716. Cái đầu hay các tay chân của ông nội không còn được nhìn thấy, trong khi khóc lóc ở tháp thờ bằng đất sét, có lẽ cha mới là điên khùng?”
Còn ông nội, rõ ràng
Ðầu, tay, chân đã mất,
Kẻ khùng nào khóc than?
Chỉ có cha độc nhất!
717. Ādittaṃ vata maṃ santaṃ ghatasittaṃva pāvakaṃ, vārinā viya osiñcaṃ sabbaṃ nibbāpaye daraṃ.
717. “Quả thật, trong khi ta đang bị thiêu đốt tựa như ngọn lửa được rưới bơ lỏng, con có thể dập tắt tất cả nỗi buồn bực như là đang rưới nước xuống.
Như lửa dầu đang trong cơn cháy mạnh,
Nước đổ vào liền bị tắt ngay đi,
718. Abbūḷhaṃ vata me sallaṃ sokaṃ hadayanissitaṃ, yo me sokaparetassa pitusokaṃ apānudi.
718. Khi ta bị sầu muộn chế ngự, người nào đã xua đi nỗi sầu muộn về người cha của ta, người ấy quả thật đã rút ra mũi tên sầu muộn đã cắm vào trái tim của ta.
Cõi lòng ta đang nhức nhối sầu bi,
Con ta đã chữa lành đời ta sáng
719. Sohaṃ abbūḷhasallosmi vītasoko anāvilo, na socāmi na rodāmi tava sutvāna māṇava.
719. Ta đây, có mũi tên đã được rút ra, có sự sầu muộn đã được xa lìa, không bị vẩn đục. Này người thanh niên, sau khi lắng nghe con, ta không sầu muộn, không khóc lóc.
Gai đã nhổ, tươi vui và tĩnh lặng,
Ta hết sầu, nghe lời của con ta.
Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada