708. Jino rathassa maṇikuṇḍale ca putte ca dāre ca tatheva jino, sabbesu bhogesu asesitesu kasmā na santappasi sokakāle.

708. “Bị tước đoạt cỗ xe, ngựa, và các bông tai ngọc ma-ni, tương tự y như thể, bị tước đoạt các con và những người vợ, khi tất cả các của cải không còn tồn tại, vì sao ngài không bực bội vào thời điểm sầu muộn?”

Bị cướp hết niềm vui cuộc sống,
Hết hoa tai lộng ngọc, ngựa, xe,
Vợ yêu, con dấu mất đi,
Xem ra ngài chẳng tỏ chi phiền hà!

709. Pubbe va maccaṃ vijahanti bhogā macco vā te pubbataraṃ jahāti, asassatā bhogino kāmakāmī tasmā na socāmahaṃ sokakāle.  

709. “Các của cải lìa bỏ con người trước tiên, hoặc là con người từ bỏ chúng trước hết, này kẻ ước ao dục vọng, là tính chất không trường tồn của tài sản, vì thế ta không bực bội vào thời điểm sầu muộn.

Thú vui sẽ vội rời ta,
Thú vui rồi sẽ bay xa mấy hồi.
Vua kia tự hóa buồn thôi,

710. Udeti āpūrati veti cando atthaṃ tapetvāna paleti suriyo, viditā mayā sattuka lokadhammā tasmā na socāmahaṃ sokakāle.  

710. Mặt trăng mọc lên, tròn dần, rồi khuyết, mặt trời sau khi đốt nóng bầu trời rồi rút lui, này kẻ thù địch, các pháp thế gian đã được ta nhận biết, vì thế ta không bực bội vào thời điểm sầu muộn.

Như vần trăng hiện trên trời, trăng non,
Ðầy dần cho đến lúc tròn,
Khuyết đi rồi lại chẳng còn trăng đâu!Sưởi cho vạn vật tươi màu,
Mặt trời vội lặn bên bầu trời xa,
Luật đời là đổi thay mà,
Khổ đau không thể làm ta bận lòng.

711. Alaso gihī kāmabhogī na sādhu asaññato pabbajito na sādhu, rājā na sādhu anisammakārī yo paṇḍito kodhano taṃ na sādhu.

711. Người tại gia biếng nhác có sự thọ hưởng các dục, là không tốt, bậc xuất gia không tự chế ngự, là không tốt, vị vua có hành động không cân nhắc, là không tốt, người sáng suốt có sự phẫn nộ, việc ấy là không tốt.

Ghét thường nhân tham dục
Vẫn theo thói biếng lười.
Kẻ tu hành giả mặt:
Phường xảo quyệt đấy thôi!
Hôn quân thường xử án
Mà chẳng chịu lắng nghe;
Không thể nào biện bạch
Bậc trí nổi sân si7



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada