683. Alaṅkatā suvasanā mālinī candanussadā, ekikā sayane setu yā te ambe avāharī ”ti.

683. “Cô nào đã trộm những trái xoài của ông, cầu cho nàng ấy đã được trang điểm, mặc y phục đẹp, có tràng hoa, thoa nhiều trầm hương, nằm ngủ đơn độc một mình ở trên giường.”

Cô nào đã làm hư cây hết,
Mặc đồ xinh, đầu kết hoa cài.
Dầu chiên-đàn vẫn xức hoài,
Nhưng giường kia vẫn miệt mài gái tân!

684. Vanaṃ yadaggi dahati pāvako kaṇhavattanī, kathaṃ karosi pacalaka evaṃ dandhaparakkamo.

684. “Vào lúc ngọn lửa, thần hỏa với sự làm thành tối đen, thiêu đốt khu rừng, này rùa, với sự ra sức chậm chạp như vậy, ngươi sẽ làm thế nào?”

Một khi lửa cháy lan rừng,
Phải rời đi tránh con đường khói sau,
Hỡi anh Lệt-bệt, làm sao
Tìm ra cho được cách nào an thân?

685. Bahūni rukkhachiddāni pathavyā vivarāni ca, tāni ce nābhisambhoma hoti no kālapariyāyo.  

685. “Có nhiều lỗ hổng ở các cây và nhiều khe nứt ở mặt đất, nếu chúng tôi không đến được các nơi ấy, thì chúng tôi sẽ chấm dứt cuộc đời.”

Nơi nào cũng lắm lỗ hang,
Cây nào cũng nứt ra từng hốc kia.
Ðấy đều chỗ trú ấy mà,
Nếu không tìm được đành là chết luôn!

686. Yo dandhakāle tarati taraṇīye ca dandhati, sukkhapaṇṇaṃva akkamma atthaṃ bhañjati attano.  

686. “Người nào vội vã vào thời điểm chậm rãi và chậm rãi vào lúc nên vội vã, người ấy phá vỡ mục đích của bản thân tựa như giẫm đạp chiếc lá khô.

Ai hấp tấp khi cần nghĩ lại,
Và chậm lâu khi phải thực nhanh
Sẽ làm tiêu phúc mong manh,
Như cành lá nọ dưới chân đạp đầy.



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada