679. “Tình thân hữu giữa người bị hại và kẻ gây hại có thể kết nối lại được giữa các bậc sáng trí, và không thể giữa những kẻ ngu si; này chim dẽ cái, hãy ở lại, chớ bỏ đi.”

Nếu họ khôn ngoan chẳng dại khờ,
Có cơ sống an ổn, hài hòa,
Kẻ gây hại với người mang hại,
Này hạc hiền ơi, ở lại mà.

680. Yo nīliyaṃ maṇḍayati saṇḍāsena vihaññati, tassa sā vasamanvetu yā te ambe avāhari.  

680. “Cô nào đã trộm những trái xoài của ông, cầu cho nàng ấy hãy rơi vào quyền lực của người đàn ông trang điểm tóc nhuộm đang khổ sở vì cái nhíp nhổ tóc.

Cô nào đã ăn xoài ngài đó
Sẽ gặp chồng thô lỗ cục cằn,
Râu lông xoắn xám, xảo giảm,
Tóc kia từng lọn uốn quăn trên đầu.

681. Vīsaṃ vā pañcavīsaṃ vā ūnatiṃsaṃva jātiyā, tādisā patimāladdhā yā te ambe avāhari.  

681. “Cô nào đã trộm những trái xoài của ông, người như nàng ấy chớ có kiếm được chồng cho đến hai mươi, hoặc hai mươi lăm, hoặc xấp xỉ ba mươi tuổi.”

Hãy cho cô trộm cây xoài ấy,
Kiếm mãi chồng chẳng thấy ai ra.
Mười ba, mười chín tuổi qua,
Ba mươi gần đến biết là làm sao.

682. Dīghaṃ gacchatu addhānaṃ ekikā abhisāriyā, saṅkete pati māddasa yā te ambe avāhari.  

682. “Cô nào đã trộm những trái xoài của ông, cầu cho nàng ấy phải lặn lội đường xá xa xôi, đơn độc một mình, đi gặp người yêu, và chẳng gặp được người tình ở điểm hẹn.”

Kẻ nào đã vào ăn xoài ngọt
Sẽ cô đơn khổ nhọc lên đường,
Ðến nơi hò hẹn muộn màng,
Sầu đau khi thấy tình lang đi rồi!



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada