659. Yametaṃ parisappasi ajakāṇova sāsape, yopāyaṃ heṭṭhato sesi etampi viditaṃ mayā ”ti.

659. Việc ngươi bò trườn quanh, tựa như con dê chột mắt chạy lạc ở cánh đồng mù-tạt, kẻ nào là người nằm ở bên dưới, điều này cũng đã được trẫm biết rồi.”

Ngươi thận trọng trườn thân, giống với
Dê chột kia, đồng cải lạc bầy,
Ngươi đang ẩn nấp dưới đây.
Là ai, ta cũng biết ngay cả rồi!

660. Adassanena morassa sikhino mañjubhāṇino, kākaṃ tattha apūjesuṃ maṃsena ca phalena ca.  

660. “Do chưa nhìn thấy con công, có chỏm lông, có tiếng kêu ngọt ngào, ở nơi ấy người ta đã cung phụng con quạ với thịt và trái cây.

Trước khi công có chỏm
Xuất hiện ở nơi đây.
Quạ được thịt, trái cây,
Làm quà cung dâng đến.

661. Yadā ca sarasampanno moro bāverumāgamā, atha lābho ca sakkāro vāyasassa ahāyatha.  

661. Và khi con công có âm giọng đã đến xứ Bāveru, khi ấy lợi lộc và sự trân trọng đối với con quạ đã bị bỏ quên.

Giọng ngọt ngào trìu mến,
Công đến Bà-ve-ru,
Quạ liền bị khước từ,
Lợi dưỡng và danh vọng.

662. Yāva nupajjati buddho dhammarājā pabhaṅkaro, tāva aññe apūjesuṃ puthū samaṇabrāhmaṇe.  

662. Cho đến khi nào đức Phật, bậc Pháp Vương, đấng Mặt Trời còn chưa hiện khởi, cho đến khi ấy người ta đã còn cúng dường các Sa-môn và Bà-la-môn phàm phu khác.

Người ta rất kính trọng
Nhiều đạo sĩ tu hành.
Ðến khi Phật khai minh
Ánh hào quang chân lý.



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada