655. Esasmākaṃ kule dhammo pitupitāmaho sadā, sakkaccaṃ upatiṭṭhāma uttamaṃ viya ñātakan ”ti.

655. Điều này là tập quán của gia đình chúng tôi, thường xuyên từ thời cha ông: chúng tôi phục vụ một cách trân trọng tựa như thân nhân bậc trên.”

Chỗ khách ngồi, mời mọc,
Cung cấp thứ khách cần,
Mang nước đến rửa chân,
Ðãi khách như thân tộc.

656. Viditaṃ thusaṃ undurānaṃ viditaṃ pana taṇḍulaṃ, thusaṃ thūlaṃ vivajjetvā taṇḍulaṃ pana khādare.  

656. “Đối với những con chuột, vỏ trấu được nhận biết, hạt cơm lại càng được nhận biết. Sau khi loại bỏ vỏ trấu thô cứng, chúng ăn toàn hạt cơm.

Giác quan nhạy, chuột kia tinh xảo,
Trong phần cơm, nhận thấu rõ ra:
Tránh ăn nhiều vỏ trấu kia,
Lựa cơm từng hạt để mà ăn thôi.

657. Yā mantanā araññasmiṃ yā ca gāme nikaṇṇikā, yañcetaṃ iticītica etampi viditaṃ mayā.  

657. Lời bàn bạc nào ở trong vườn, và lời thủ thỉ nào ở trong làng, hành động nào là như vầy và như vầy, việc ấy cũng được trẫm biết nữa.

Chuyện bí mật ở trong rừng đó,
Chính ta đây hiểu rõ còn chi!
Trong làng, mưu định thầm thì,
Bao nhiêu cũng đã rõ ghi tai này.

658. Dhammena kira jātassa pitā puttassa makkaṭo, daharasseva santassa dantehi phalamacchidā.  

658. Nghe nói rằng khỉ cha, theo bản năng, đã dùng những cái răng cắn đứt tinh hoàn của khỉ đực con đã được sanh ra, trong khi nó hãy còn rất trẻ.

Con khỉ nọ ra tay một bận,
Làm những điều tán tận ác nguy.
Khi con bé bỏng biết chi,
Sức kia há đủ để bì được chăng?



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada