643. Evameva manussesu yo hoti seṭṭhasammato, so cepi dhammaṃ carati pageva itarā pajā, sabbaṃ raṭṭhaṃ sukhaṃ seti rājā ce hoti dhammiko ”ti.

643. Tương tự y như thế ở loài người, nếu người được phong làm thủ lãnh thực hành đúng pháp, không phải đề cập đến những người khác, toàn bộ vương quốc sẽ được hạnh phúc nếu đức vua là người công chính.”

Người cầm đầu, nếu theo đường công chính
Cả đám đông sẽ tránh điều bất hạnh
Khắp nước nhà sẽ hưởng lạc tịnh an.

644. Brahā pavaḍḍhakāyo so dīghadāṭho ca jambuka, na tvaṃ tamhi kule jāto yattha gaṇhanti kuñjaraṃ.  

644. “Này chó rừng, nó to lớn, có thân vươn cao, và có ngà dài. Ngươi không sanh ra từ dòng dõi bắt voi.

Chó rừng, coi chừng đấy!
Ðôi ngà voi dài ấy.
Loài bạn bé tí hon
Khó có được một con
Dám đối mặt thú nọ
Oai hùng và đồ sộ.

645. Asīho sīhamānena yo attānaṃ vikubbati, kotthuva gajamāsajja seti bhūmyā anutthunaṃ.

645. “Kẻ nào không phải là loài sư tử, tự đánh tráo bản thân với ngã mạn của loài sư tử, tựa như con chó rừng nằm dài trên mặt đất rên rỉ, sau khi chạm trán với con voi.

Chó rừng nọ mang oai Sư tử,
Ðã một lần toan cự voi kia.
Ngã nhào, ngực vỡ kêu la,
Mới hay tiếc đã vội ra đối đầu.

646. Yasassino uttamapuggalassa sañjātakhandhassa mahabbalassa, asamekkhiya thāmabalūpapattiṃ sa seti nāgena hatova jambuko.  

646. Sau khi không suy xét về việc đạt đến sức mạnh và trí lực của hạng người tối thượng, có danh tiếng, có thân hình được hình thành với sức mạnh vĩ đại, con chó rừng ấy đã bị giết chết bởi con voi.

Ai thích đấu kẻ nào siêu đẳng
Sức mạnh kia nếu chẳng nhận ghi,
Sẽ đành chia xẻ tức thì
Chó rừng số phận sầu bi thế này.

5. Jambukajātakaṃ - Bổn sanh Con Chó Rừng

647. Yo cidha kammaṃ kurute pamāya thāmabalaṃ attani saṃviditvā, jappena mantena subhāsitena parikkhavā so vipulaṃ jinātī ”ti.

647. Và ở đây, người nào làm công việc sau khi đã lượng sức, sau khi tự nhận biết sức mạnh và trí lực của bản thân, với tri thức, nhờ vào sự tham vấn, bằng lời khéo nói, có sự khôn khéo, người ấy chiến thắng kẻ thù to lớn.”

Kẻ biết lượng sức tài mình có,
Biết e dè khi tỏ lời ra,
Sống tròn bổn phận đời ta,
Bao nhiêu cừu địch cũng là thắng thôi.

Câu chuyện 335

648. Tiṇaṃ tiṇanti lapasi ko nu te tiṇamāhari, kinnu te tiṇakiccatthi tiṇameva pabhāsasi.  

648. “Bệ hạ nói lảm nhảm: ‘Cỏ, cỏ,’ vậy người nào đã mang cỏ lại cho bệ hạ? Bệ hạ chỉ nói về cỏ mà thôi, vậy bệ hạ có việc gì cần làm với cỏ?”

"Cỏ" vẫn là tiếng ngài kêu mãi,
Kẻ nào giành cỏ ấy của ngài?
Ngài cần chi với cỏ vầy?
Tại sao ngài cứ lời này thốt ra?

649. Idhāgamā brahmācārī brahā chatto bahussuto, so me sabbaṃ samādāya tiṇaṃ nikkhippa gacchati.

649. “Vị thực hành Phạm hạnh vĩ đại, nổi tiếng, tên Chatta đã đi đến đây. Vị ấy đã lấy tất cả (của cải) của trẫm, để lại cỏ, rồi ra đi.”

Chính đạo sĩ Chat-ta nổi tiếng.
Như thế này câu chuyện xảy ra;
Nó đem cỏ thế vàng ta,
Ta đây trách cứ riêng nhà nó thôi.

650. Evetaṃ hoti kattabbaṃ appena bahumicchatā, sabbaṃ sakassa ādānaṃ anādānaṃ tiṇassa ca, cāṭīsu pakkhipitvāna tattha kā paridevanā.  

650. “Như vậy, điều ấy là nên làm, là việc muốn nhiều so với ít. Việc lấy tất cả cho bản thân, và việc không lấy đối với cỏ, sau khi đã để cỏ trong những cái hũ, trường hợp ấy, có sự than vãn gì?”

Bọn tinh ma vẫn noi đường lối:
"Cho ít thôi, nhưng đổi lấy nhiều".
Của riêng phần nó mang theo,
Cỏ kia để lại, há điều khôn ngoan?

651. Sīlavanto na kubbanti bālo sīlāni kubbati, aniccasīlaṃ dussīlyaṃ kiṃ paṇḍiccaṃ karissatī ”ti.

6. Brahāchattajātakaṃ. 

651. “Những người có giới hạnh không làm thế, kẻ ngu còn thực hành các giới. Giới không bền vững là giới tồi, cái gì sẽ tạo nên sự sáng suốt?”



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada