635. Nisamma khattiyo kayirā nānisamma disampati, nisamma kārino rāja yaso kitti ca vaḍḍhatī ”ti.

635. Vị Sát-đế-lỵ nên hành động sau khi cân nhắc. Bậc chúa tể không thể không cân nhắc. Tâu bệ hạ, người hành động sau khi cân nhắc có danh vọng và tiếng tăm tăng trưởng.”

Ðời đời công chính vang danh,
Quân vương cân nhắc ban hành lệnh ra.

636. Tadeva me tvaṃ vidito vanamajjhe rathesabha, yassa te khaggabaddhassa sannaddhassa tirīṭino, assatthadumasākhāya pakkā godhā palāyatha.  

636. “Tâu đấng thủ lãnh xa binh, chính vào lúc ấy, ở giữa cánh rừng, thiếp đã hiểu được bệ hạ. Vào lúc bệ hạ đây mặc áo vỏ cây đã được nai nịt, đã buộc chặt gươm, thế mà từ nơi cành cây sung, con kỳ đà được nướng chín đã tẩu thoát.”

Ngài cho tôi biết rõ ra
Ở trong rừng thẳm, trước kia, tâu ngài:
Tắc kè nướng bứt dây gai,
Từ cành đa nọ thoát ngay ấy mà.
Bên trong lớp áo vỏ dà,
Giáp dày, gươm sắc, tôi đà rõ soi.

637. Name namantassa bhaje bhajantaṃ kiccānukubbassa kareyya kiccaṃ, nānatthakāmassa kareyya atthaṃ asambhajantampi na sambhajeyya.

637. “Nên cúi chào lại người đang cúi chào, nên cộng sự với người đang cộng sự, nên thực hành phận sự đối với người đang thực hành phận sự, không nên làm điều lợi ích đến người không mong mỏi điều lợi ích, không nên gắn bó với người không gắn bó.

Ai trọng ta, ta thời xứng trọng,
Tỏ hảo tâm, hành động đáp đền;
Chẳng nên tốt với bọn hèn,
Kẻ nào tránh mặt, chẳng nên yêu vì.

638. Caje cajantaṃ vanathaṃ na kayirā apetacittena na sambhajeyya, dvijo dumaṃ khīṇaphalanti ñatvā aññaṃ samekkheyya mahā hi loko. 

638. Nên từ bỏ người đang từ bỏ ta, không nên thể hiện sự yêu thương, không nên gắn bó với người có tâm hờ hững. Con chim, sau khi biết cây đã hết trái, thì tìm kiếm cây khác, bởi vì thế gian là rộng lớn.”

Kẻ bỏ ta, ta thì bỏ hẳn,
Chớ yêu thương kẻ chẳng thương ta.
Như chim lìa bỏ cây khô,
Bay tìm trú xứ nơi xa trong rừng.



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada