607. “Điều ấy là quá thừa thãi, ta sẽ đi vào gò mối có chiều cao bằng một trăm người. Ngươi cứ việc ca ngợi dầu, và muối, hạt tiêu dài là không có lợi ích đối với ta.”
Ta ẩn náu êm đềm ấm cúng
Giữa đám đông trong đụn kiến này.
Muối, dầu, chuyện nhảm chớ bày
Cả tiêu kia nữa, ta đây chán rồi.
608. Kāyena yo nāvahare vācāya na musā bhaṇe, yaso laddhā na majjeyya sa ve kakkārumarahati.
608. “Người nào không trộm cắp bằng thân, không nói lời dối trá bằng khẩu, sau khi đạt được danh vọng không bị say đắm, người ấy thật sự xứng đáng hoa kakkāru (của cõi Trời).”
Kẻ nào giữ mình không trộm cắp.
Miệng lưỡi luôn tránh tật dối lời
Ðạt nên danh vọng cao vời.
Giữ tâm yên ổn - xứng đòi hoa đây.
609. Dhammena vittameseyya na nikatyā dhanaṃ hare, bhoge laddhā na majjeyya sa ve kakkārumarahati.
609. “Người nào tầm cầu của cải một cách chân chánh, không lấy đi tài sản bằng cách lường gạt, sau khi đạt được các vật sở hữu không bị say đắm, người ấy thật sự xứng đáng hoa kakkāru (của cõi Trời).”
Kẻ nào kiếm tiền tài chân thật
Tránh gian manh để đạt giàu sang
Thú vui quá độ, tránh luôn,
Xứng phần được đóa thiên hương đây này.
610. Yassa cittaṃ ahāliddaṃ saddhā ca avirāginī, eko sāduṃ na bhuñjeyya sa ve kakkārumarahati.
610. “Người nào có tâm không thay đổi và đức tin không bị phai nhạt, một người không thọ dụng thức ăn ngon ngọt, người ấy thật sự xứng đáng hoa kakkāru (của cõi Trời).”
Kẻ nào chẳng lệch xa mục đích,
Và lòng tin bất dịch chẳng rời,
Thức ăn ngon chẳng đoái hoài,
Chánh chân đòi hỏi hoa trời này đây.
Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada