603. Evaṃ so nihato seti yo apūjaṃ namassati, yathāhamajja pahaṭo hato meṇḍena dummatī ”ti.
603. “Như vậy, tôi đây bị ngã gục, nằm dài. Kẻ nào ca ngợi người không xứng đáng sự tôn vinh, là kẻ có trí tồi, giống như tôi hôm nay bị húc ngã, bị giết chết bởi con cừu.”
Kẻ nào tỏ kính cung nơi chẳng xứng,
Ðều xẻ chia số phận của tôi nay,
Bị cừu kia húc ngã xuống đất đây.
Tôi phải chết vì lòng tin vụng dại.
604. Samaṇaṃ taṃ maññamāno upagacchiṃ asaññataṃ, so maṃ daṇḍena pāhāsi yathā assamaṇo tathā.
604. “Trong khi nghĩ rằng kẻ ấy là Sa-môn, tôi đã đi đến gần kẻ không tự chế ngự. Kẻ ấy đã đánh tôi bằng cây gậy, như thế không phải là Sa-môn.
Kẻ nào đóng vai tu ẩn dật,
Chế ngự mình, cần được tỏ ra.
Chính người ném gậy vào ta,
Người tu ẩn dật hẳn là giả danh.
605. Kiṃ te jaṭāhi dummedha kiṃ te ajinasāṭiyā, abbhantaraṃ te gahanaṃ bāhiraṃ parimajjasi.
605. Này kẻ ngu muội, có ích gì với những búi tóc bện của ngươi? Có ích gì với y phục bằng da dê của ngươi? Ngươi đánh bóng bên ngoài, bên trong của ngươi là rừng rậm (ô nhiễm).”
Tóc bện ấy, da trần không áo
Ðể che trùm, tội giấu kín hoài.
Khùng thay! Lo sạch bề ngoài,
Bỏ quên mọi thứ xấu tồi bên trong.
606. Ehi godha nivattassu bhuñja sālīnamodanaṃ, telaṃ loṇañca me atthi pahūtaṃ mayha pipphali.
606. “Này con kỳ đà, hãy đến, hãy quay lại, hãy ăn cơm gạo sālī. Ta có dầu và muối, ta có nhiều hạt tiêu dài.”
Tắc kè ơi, mau vòng quay lại,
Muối, dầu, ta chẳng phải thiếu đâu.
Cả tiêu, ta nảy ý cầu
Một phần thích khẩu thêm vào món cơm.
607. Esa bhiyyo pavekkhāmi vammikaṃ sataporisaṃ, telaṃ loṇañca kittesi ahitaṃ mayha pipphalī ”ti.
Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada