571. Na sasassa tilā atthi na muggā na pi taṇḍulā, iminā agginā pakkaṃ mamaṃ bhutvā vane vasā ”ti.
571. “Thỏ tôi không có mè, không có đậu, cững không có gạo. Ngài hãy ăn thịt tôi đã được nướng chín bằng ngọn lửa này, rồi sống ở trong rừng.”
Tôi chẳng có thức ăn mè, đậu,
Cùng gạo cơm để hậu đãi ngài.
Thịt tôi hãy nướng lửa thôi,
Nếu ngài sống với chúng tôi chốn này.
572. Matamatameva rodatha na hi taṃ rodatha yo marissati, sabbeva sarīradhārino anupubbena jahanti jīvitaṃ.
572. “Quý vị khóc người đã chết và chỉ mỗi người đã chết, bởi vì quý vị không khóc cho người chưa chết. Toàn bộ tất cả những loài có thân xác đều từ bỏ mạng sống theo tuần tự.
Khóc người sống hết khóc kẻ chết,
Mọi sinh linh đều kết một thân,
573. Devamanussā catuppadā pakkhigaṇā uragā ca bhogino, samhi sarīre anissarā ramamānāva jahanti jīvitaṃ.
573. Chư Thiên, nhân loại, loài bốn chân, các loài chim, và các loài bò sát có thân hình to lớn, đều không có quyền hành về thân xác của mình, chúng từ bỏ mạng sống ngay trong lúc đang còn vui thích.
Loài chim, loài thú bốn chân, Rắn, người, thần thảy bước chung một đàng.
574. Evañcalitaṃ asaṇṭhitaṃ sukhadukkhaṃ manujesu apekkhiya, kanditaruditaṃ niratthakaṃ kiṃ vo sokagaṇābhikīrare.
574. Như vậy, hạnh phúc hay khổ đau ở loài người là bị dao động, không được ổn định, không thể trông đợi, rên rỉ và khóc lóc là không có lợi ích, tại sao quý vị lại gieo rắc lắm nỗi sầu muộn?
Chống số phận, ta càng bất lực,
Vui chết không khổ lạc thăng trầm.
Sao chìm trong mối thương tâm
Vì người anh chết, lệ đầm đìa rơi?
Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada