567. Yassa gāme sakhā natthi yathāraññaṃ tatheva taṃ, sabbassa sadidī vācā sabbaṃ samma dadāmi te ”ti.
567. “Đối với người nào không có bạn bè ở trong làng, nơi ấy giống y như khu rừng. Lời nói có sự tương đương với tất cả, này bạn, ta cho bạn tất cả.”
Tôi dám nghĩ: cuộc đời không bạn
Chắc phải là hoang vắng đìu hiu!
Gồm trong tiếng "bạn" niềm yêu,
Nên tôi tặng hết bao nhiêu thịt này.
568. Satta me rohitā macchā udakā thalamubbhatā, idaṃ brāhmaṇa me atthi etaṃ bhutvā vane vasa.
568. “Bảy con cá hồng của tôi đã được vớt từ dưới nước lên đất liền. Này Bà-la-môn, cái này là phần tôi có. Ngài hãy ăn cái ấy rồi sống ở trong rừng.”
Bảy cá hồng tôi đã gọn mang
Từ dòng nước cả của sông Hằng,
Bà-la-môn hỡi, ăn cho thỏa,
Và ở lại đây chốn núi ngàn.
569. Dussa me khettapālassa rattibhattaṃ apābhataṃ, maṃsasūlā ca dve godhā ekañca dadhivārakaṃ, idaṃ brāhmaṇa me atthi etaṃ bhutvā vane vasa.
569. “Tôi đã lấy đi bữa ăn tối của người giữ ruộng ấy gồm có hai xiên thịt nướng, một con kỳ đà, và một bình sữa. Này Bà-la-môn, cái này là phần tôi có. Ngài hãy ăn cái ấy rồi sống ở trong rừng.”
Người coi đồng dành thức ăn tối
Bình sữa kia; rắn mối nữa đây.
Hai xiên để nướng thịt này
Tôi đây trót dại lấy ngay ấy mà.Có bao nhiêu tôi đà tặng đấy,
Bà-la-môn xin hãy ăn thôi!
Nếu ngài hạ cố đến nơi
Rừng này ở lại cùng tôi một hồi.
570. Ambapakkodakaṃ sītaṃ sītacchāyaṃ manoramaṃ, idaṃ brahmaṇa me atthi etaṃ bhutvā vane vasa.
570. “Xoài chín, nước lạnh, bóng cây dâm mát làm thích ý. Này Bà-la-môn, cái này là phần tôi có. Ngài hãy ăn cái ấy rồi sống ở trong rừng.”
Dòng nước lạnh với cành xoài mọng,
Chốn rừng xanh rợp bóng yên lành,
Ðể ngài vui hưởng, sẵn dành,
Nếu ngài thỏa ý, rừng xanh nương mình.
Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada