539. Yassa sammukhaciṇṇena mittadhammo na labbhati, anusuyyam anakkosaṃ saṇikaṃ tamhā apakkame ”ti.
539. Với công đức đã làm trực tiếp đến kẻ nào, mà pháp thân hữu không đạt được, thì nên mau chóng rời xa kẻ ấy, không phật lòng, không sỉ vả.”
Ðừng khởi ý chua cay
Ðừng buông lời gắt gay.
Phường xấu xa như thế,
Ta cần lánh xa ngay!
540. Sabbamidaṃ carimavataṃ ubho dhammaṃ na passare, ubho pakatiyā cutā yo cāyaṃ sajjhāpayati, yo ca dhammaṃ adhīyati.
540. “Toàn bộ việc này là sự thọ trì thời cận đại, cá hai không nhìn thấy pháp, cả hai đã bị lệch ra khỏi lề thói, người này dạy (ngồi chỗ thấp), và người học pháp (ngồi chỗ cao).”
Thưa Ðạo sư, thưa Vương đệ tử,
Tôi thấy kia mọi sự lỗi lầm,
Hai ngài đọa khỏi thiên ân,
Hai ngài giới luật đều làm sai hư.
541. Sālīna bhojanaṃ bhuñje suciṃ maṃsūpasevanaṃ, tasmā etaṃ na sevāmi dhammaṃ isīhi sevitaṃ.
541. “Ta thọ thực bữa ăn với gạo sālī, có trộn lẫn thịt tinh khiết. Vì thế, ta không thực hành việc ấy, là pháp mà các vị ẩn sĩ phụng sự.”
Gạo ta ăn lấy từ đồi nọ
Mùi thơm ngon như có thịt vào.
Kẻ kia tội lỗi, tại sao
Thánh đang dùng bữa, lại rao giới điều?
542. Paribbaja mahā loko pacantaññepi pāṇino, mā taṃ adhammo ācarito asmā kumbhamivābhidā.
542. “Ngài hãy ra đi, thế gian là to lớn, dầu cho các sinh mạng khác bị đọa đày. Ngài chớ thực hành việc phi pháp, tựa như hòn đá làm vỡ cái chum.
Hãy dọc ngang mọi chiều mặt đất,
Bà-la-môn, người sẽ thấy ra
Xem kia, đau khổ ấy là
Số phần chung của người ta trên đời.
Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada