523. Videsavāsaṃ vasato jātavedasamenapi, khamitabbaṃ sapaññena api dāsassa tajjitan ”ti.

523. Người đang sống lưu trú ở nước ngoài, dầu là (chói sáng) như là ngọn lửa, với trí tuệ của mình cũng nên nhẫn nhịn sự công kích của kẻ hạ cấp.”4. Bổn sanh Con Rắn Daddara.

Trong nhà dù sáng như trời,
Ra ngoài phải chịu đựng người hạ lưu.

524. Natthi loke raho nāma pāpakammaṃ pakubbato, passanti vanabhūtāni taṃ bālo maññatī raho.

524. “Không có việc gọi là kín đáo ở thế gian đối với kẻ đang làm việc ác. Các sinh linh ở trong rừng nhìn thấy việc mà kẻ ngu nghĩ là kín đáo.

Thật ra chẳng việc nào tội lỗi
Lại kín bưng đối với đời này.
Kẻ ngu tưởng kín đáo thay,
Thần linh cũng đã thấy ngay hết rồi.

525. Ahaṃ raho na passāmi suññaṃ vāpi na vijjati, yattha aññaṃ na passāmi asuññaṃ hoti taṃ mayā.

525. Con không nhìn thấy nơi nào kín đáo, hoặc nơi trống vắng cũng không tìm thấy. Nơi nào con không nhìn thấy người nào khác, nơi ấy là không trống vắng bởi vì con (có mặt ở đó).”

Ðiều bí mật chẳng nơi giấu được,
Với tôi đây không nốt cái không.
Ở nơi chẳng có ai cùng
Nhưng tôi có đó, hết luôn không rồi!

526. Dujjacco ca sujacco ca nando ca sukhavacchako, vejjo addhuvasīlo ca te dhammaṃ jahumatthikā.

526. “Dujjacca, Sujacca, Nanda, Sukhavacchaka, Vejja, và Addhuvasīla, tất cả bọn chúng, với mục đích (đạt được vợ), đã từ bỏ nguyên tắc đạo đức.

Cậu Hoang, cậu Khánh, cậu Vui
Lại thêm cậu Dễ, cậu Tồi, cậu Vinh
Thảy mong được vợ cho mình
Lầm đường lạc nẻo mà thành lông bông.

5. Sīlavīmaṃsajātakaṃ - Bổn sanh Suy Xét Về Giới.

527. Brāhmaṇe ca kathaṃ jahe sabbadhammānapāragū, yo dhammamanupāleti dhitimā saccanikkamo ”ti.

527. Và làm thế nào vị Bà-la-môn có thể từ bỏ (mục đích đạt được vợ)? Vị đã đi đến bờ kia đối với tất cả các pháp là người gìn giữ nguyên tắc đạo đức, có nghị lực, có sự nỗ lực vì chân lý.”

Thấy rõ Pháp từ trong tuổi trẻ,
Luôn chấp trì Chân đế mà thôi.
Do lòng can đảm cao vời,
Bà-la-môn lấy được người vợ kia.

528. Kiṃ aṇḍakā ime deva nikkhittā kaṃsamallake, upalohitakā vaggu taṃ me akkhāhi pucchito.

528. “Tâu bệ hạ, những trái này, như những quả trứng, có tên là gì? Chúng được đặt ở mâm đồng, có màu đỏ tựa máu, xinh tươi. Được thiếp hỏi, xin bệ hạ hãy nói về nó.”

Dáng như cái trứng, cái gì đây
Trong đĩa vàng kia đặt trước ngài,
Sắc đỏ xinh thay - Tâu thánh thượng,
Trái cây này mọc ở đâu vầy?

529. Yāni pure tvaṃ devi bhaṇḍu nantakavāsinī, ucchaṅgahatthā pacināsi tassā te koliyaṃ phalaṃ.

529. “Này hoàng hậu, nàng trước kia, đầu cạo, mặc y phục tàn tạ, dùng cánh tay thu gom chúng vào lòng, là trái táo của nàng đấy.

Áo quần mộc mạc, đầu không mão,
Ngày ấy nào cô hổ thẹn đâu?
Vạt áo đựng đầy bao trái táo,
Bây giờ lại hỏi trái cây nào!

530. Uḍḍayhate na ramati bhogā vippajahanti taṃ, tatthevimaṃ paṭinetha yattha kolaṃ pacissati.

530. ‘Nàng này kiêu ngạo nên không vui thích, các của cải rời bỏ nàng ấy.’ Các ngươi hãy đưa nàng này về lại đúng nơi mà nàng sẽ thu gom trái táo.”

Cô quá tự cao, hư hỏng ra,
Ðời cô chẳng thấy thú đâu mà!
Ði đi, táo ấy, lui về lượm,
chẳng còn là vợ của ta.



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada