519. Panujja dukkhena sukhaṃ janinda sukhena vā dukkhamasayhasāhi, ubhayattha santo abhinibbutattā sukhe ca dukkhe ca bhavanti tulyā ”ti.
519. Này quân vương, sau khi đổi thay hạnh phúc bằng khổ đau, hoặc khổ đau bằng hạnh phúc, hãy chịu đựng điều không thể chịu đựng. Ở cả hai trường hợp, những người an tịnh, có bản thân tịch tịnh, đều thản nhiên ở hạnh phúc và ở khổ đau.”
Khi vui sướng chuyển ra khổ cực,
Kẻ bền lòng lọc được an khang.
Khổ, vui, nào phải hai đàng,
Khi người đời đạt Niết-bàn tịch không.
520. Imāni maṃ daddara tāpayanti vācāduruttāni manussaloke, maṇḍūkabhakkhā udakantasevī āsīvisaṃ maṃ avisā sapanti.
“Này anh Daddara, những lời nói lăng mạ này ở thế giới loài người làm em bực bội: ‘Những kẻ có thức ăn là ếch, những kẻ lai vãng ở mép nước.’ Những kẻ không có nọc độc chưởi rủa em, là rắn có nọc độc.”
Dad-da-ra, ai mà chịu nỗi
Chúng nhiếc ta: " Ăn nhái, ở bùn"
Bọn kia khờ dại đáng thương,
Trước nanh rắn độc, dám nhờn mặt sao?
521. Sakā raṭṭhā pabbājito aññaṃ janapadaṃ gato, mahantaṃ koṭṭhaṃ kayirātha duruttānaṃ nidhetave.
521. “Người bị trục xuất khỏi đất nước của mình và đi đến một xứ sở khác, nên tạo ra một kho chứa lớn để chứa đựng những lời nói lăng mạ.
Kẻ lưu đầy bị vào chốn lạ
Phải chịu bao nhục mạ tân toan
522. Yattha posaṃ na jānanti jātiyā vinayena vā, na tattha mānaṃ kayirātha vasamaññātake jane.
522. Ở nơi nào người ta không biết về dòng dõi hoặc về tư cách của mình, ở nơi ấy, không nên tỏ ra ngã mạn trong khi sống với người không biết về mình.
Bậc hàng giai cấp ta mang,
Hạnh hiền đức độ há từng ai hay?
Kẻ ngu muốn tỏ bày ra dáng
Rằng ta đây là hạng cao vời.
Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada