478. Sabbakāmadadaṃ kumbhaṃ kuṭaṃ laddhāna dhuttako, yāva so anupāleti tāva so sukhamedhati.

478. “Gã vô lại đã nhận được cái chậu, cái hũ ban cho mọi điều ước muốn. Ngày nào gã còn gìn giữ cái hũ thì ngày ấy gã còn thành tựu hạnh phúc.

Kẻ vô dụng một lần được bát,
Lòng muốn gì, Bát tất thỏa ngay,
Bao lâu còn giữ Bát này,
Tiền tài luôn vẫn còn đầy cho anh.

479. Yadā matto ca ditto ca pamādā kumbhamabbhidā, tato naggo ca pottho ca pacchā bālo vihaññati.

479. Vào lúc bị say sưa và kiêu ngạo, do xao lãng gã đã làm vỡ cái hũ. Từ đó, gã sống lõa lồ và rách rưới. Về sau, gã ngu si lâm cảnh khốn cùng.

Trong một lúc ngông nghênh say khướt,
Anh làm tan Bát phước lành rồi!
Lõa lồ, rách rưới tả tơi,
Kẻ rồ tội nghiệp sống đời đắng cay.

480. Evameva yo dhanaṃ laddhā amattā paribhuñjati, pacchā tapati dummedho kuṭaṃ1 bhinnova dhuttako ”ti.

1. Bhadraghaṭajātakaṃ.

480. Tương tự y như vậy, người nào sau khi đạt được tài sản rồi thọ dụng không chừng mực, về sau kẻ ngu muội bị sầu muộn, tựa như gã vô lại đã làm vỡ cái chậu.”

1. Bổn sanh Cái Bình Tốt Lành.

Kẻ nào có gia tài đồ sộ
Nhưng hưởng đời, tiết độ chẳng hay,
Phút giây tàn mạt! - cũng tày
Anh chàng khờ khạo vỡ ngay Bát thần.

Câu chuyện 291

481. Bārāṇassaṃ mahārāja kākarājā nivāsiko, asītiyā sahassehi supatto parivārito.

481. “Tâu đại vương, quạ vương tên Supatta thường trú ở Bārāṇasī là được tùy tùng bởi tám mươi ngàn con quạ.

Ở nơi đây, thành Ba-la-nại,
Tâu Ðại vương, có vị Quạ Vua,
Tên Hoàng Dực, với đàn kia,
Tám mươi ngàn quạ đều là thần dân.

482. Tassa dohaḷinī bhariyā suphassā macchamicchati, rañño mahānase pakkaṃ paccagghaṃ rājabhojanaṃ.

482. Vợ của quạ vương là Suphassā bị ốm nghén, và muốn ăn cá là món ăn đắt giá của vua, được nấu ở bếp của nhà vua.

Nhu Hoàng hậu muôn phần mơ ước:
Bà khát khao có được bữa cơm,
Cá kia riêng của Ðại vương
Bắt tươi nấu chín vừa mang lên bàn.

483. Tesāhaṃ pahito dūto rañño camhi idhāgato, bhattu apacitiṃ kummi nāsāyamakaraṃ vaṇan ”ti.

2. Supattajātakaṃ. 

483. Được bọn họ phái đi, tôi là sứ giả của đức vua, và tôi đã đi đến nơi này. Tôi thể hiện sự kính nể đến chủ nhân, tôi đã gây nên vết thương ở mũi.”

2. Bổn sanh Quạ Vương Supatta.

Xin xem tôi như hàng sứ giả,
Vua tôi sai nên đã đến đây.
Kính Vua, tôi tỏ lòng này,
Mũi người kia bị tôi gây đau phiền.

Câu chuyện 292

484. Phuṭṭhassa me aññatarena vyādhinā rogena bāḷhaṃ dukhitassa ruppato, parisussati khippamidaṃ kaḷebaraṃ pupphaṃ yathā paṃsuni ātape kataṃ.  

484. “Lúc tôi bị tác động bởi một cơn bệnh nào đó, tôi bị khổ sở, bị hành hạ một cách dữ dội bởi sự ốm đau, thân xác này của tôi bị tàn tạ một cách nhanh chóng, giống như bông hoa được đặt trên mặt đất ở nơi nắng nóng, bị héo úa.

Bị cơn bệnh trầm kha quật xuống,
Ta nằm dài đau đớn sầu bi.
Thân ta chóng héo tàn đi
Như hoa trên đất khô vì nắng kia.

485. Ajaññaṃ jaññasaṅkhātaṃ asuciṃ sucisammataṃ, nānākuṇapaparipūraṃ jaññarūpaṃ apassato.  

485. Đối với người không nhìn thấy sắc thân mỹ miều chứa đầy các vật ghê tởm khác loại, thì vật không mỹ miều được xem là mỹ miều, vật không trong sạch được gọi là trong sạch.

Cao sang cũng như là hèn nhục,
Tinh khiết cùng vẩn đục như nhau.
Kẻ nào mù quáng biết đâu
Tưởng vùng hư thối là mầu đẹp tươi.

486. Dhiratthu taṃ āturaṃ pūtikāyaṃ jegucchiyaṃ asuciṃ byādhidhammaṃ, yatthappamattā adhimucchitā pajā hāpenti maggaṃ sugatūpapattiyā ”ti.

3. Kāyavicchandajātakaṃ.

486. Thật xấu hổ thay cái thân xác hôi thối ốm đau, đáng ghê tởm, không trong sạch, có bản chất bệnh hoạn ấy! Bị say đắm, bị mê mẫn thân xác này, chúng sanh bỏ quên đạo lộ đưa đến việc tái sanh ở cảnh giới an vui.”

3. Bổn sanh Không Còn Mong Muốn Ở Thân.

Thân bệnh hoạn này thời đáng thẹn
Quá thối hư, bất tịnh mà thôi.
Kẻ cuồng si hễ biếng lười,
Lang thang khắp lối, cõi trời chẳng sinh.

Câu chuyện 293

487. Koyaṃ bindussaro vaggu pavadantānam uttamo, accuto jambusākhāya moracchāpova kūjati.  

487. “Người này là ai mà có giọng hót tròn trịa, có âm thanh ngọt ngào, hạng nhất trong số những loài có tiếng hót, đang đậu ở cành cây đào đỏ, tựa như con công trẻ kêu líu lo?”

Ai đó ngồi cây đào đỏ hồng,
Giọng ca thanh lịch rót vào lòng,
Dáng nàng uyển chuyển như công múa
Và vẫn ngồi yên, vẫn lặng không!

488. Kulaputtova jānāti kulaputte pasaṃsituṃ, vyagghacchāpasarīvaṇṇo bhuñja samma dadāmi te.  

488. “Chỉ con nhà danh giá mới biết ca ngợi những người con nhà danh giá. Này bạn, với vóc dáng tựa như cọp con, bạn hãy ăn đi, ta tặng cho bạn.”

Kẻ nào gia thế cao sang
Mới khen kẻ khác là hàng quý cao.
Chàng cùng mãnh hổ khác nào,
Ðến đây! Ăn thứ tôi trao tặng chàng!

489. Cirassaṃ vata passāmi musāvādī samāgate, vantādaṃ kuṇapādañca aññamaññaṃ pasaṃsake ”ti.

4. Jambukhādakajātakaṃ. 

489. “Thật vậy, cuối cùng ta nhìn thấy những kẻ nói lời dối trá gặp gỡ nhau, con quạ chuyên ăn vật ói mửa và con chó rừng ăn thịt xác chết, những kẻ ca ngợi lẫn nhau.”

4. Bổn sanh Kẻ Nhai Trái Đào Đ.

Quân nói dối, ta đây rõ quá!
Tên Quạ kia, tên Chó rừng kia,
Chuyên ăn xác chết thối tha,
Nịnh nhau qua lại nghe ra om sòm!

Câu chuyện 294

490. Usabhasseva te khandho sīhasseva vijambhitaṃ, migarāja namo tyatthu api kiñci labhāmase.  

490. “Thân hình của ngài tựa như con bò mộng, sự vươn vai của ngài tựa như loài sư tử. Thưa vị vua của loài thú, xin kính lễ ngài! Chúng ta có nhận được một vật gì đó không?”

Như chàng bò mộng, tấm thân ông,
Sinh hoạt như sư tử mạnh hùng,
Vinh hiển thay ông, vua các thú!
Ðừng quên một miếng tặng tôi cùng.

491. Kulaputtova jānāti kulaputte pasaṃsituṃ, mayūragīvasaṅkāsa ito pariyāhi vāyasa.  

491. “Chỉ con nhà danh giá mới biết ca ngợi những người con nhà danh giá. Này quạ, kẻ (có cái cổ) giống như cổ của chim công, bạn hãy đi loanh quanh ở nơi đây (để ăn thịt xác chết).”

Những ai gia thế trọng cao
Mới ca ngợi đúng kẻ nào quí sang.
Cổ cô giống cổ chim công.
Quạ ơi, bay xuống mà dùng thịt đây.

492. Migānaṃ kotthuko anto pakkhīnaṃ pana vāyaso, eraṇḍo anto rukkhānaṃ tayo antā samāgatā ”ti.

5. Antajātakaṃ. 

492. “Chó rừng là hạng chót trong số các loài thú, thêm nữa, con quạ là hạng chót trong số các loài chim, cây eraṇḍa là hạng chót trong số các giống cây, ba kẻ hạng chót gặp gỡ nhau.”

5. Bổn sanh Hạng Chót.

Loài thú hèn nhất, là Chó rừng,
Trong loài chim, Quạ bét sau cùng,
Thầu dầu hạ liệt nhất loài mộc,
Ba thứ chung đây, tối hạ tầng!

Câu chuyện 295

493. Konāyaṃ loṇatoyasmiṃ samantā paridhāvati, macche makare ca vāreti ūmīsu ca vihaññati.  

493. “Kẻ này là ai mà chạy loanh quanh khắp các nơi ở vùng nước mặn, ngăn cản các loài cá và các cá đao, rồi bị khốn khổ về những làn sóng?”

Trên sóng biển ai bay qua đó?
Ai cố công cản trở thủy loài,
Ngăn đàn cá lội ngoài khơi,
Sợ rằng biển cả sẽ vơi dần dà?

494. Anantapāyī sakuṇo atittoti disāsuto, samuddaṃ pātumicchāmi sāgaraṃ saritaṃ patiṃ.  

494. “Tôi được nổi tiếng khắp bốn phương là ‘con chim không được thỏa mãn tên Anantapāyī (uống không giới hạn).’ Tôi muốn uống cạn biển lớn, biển cả, chúa tể của các con sông.”

Trên thế giới người ta vẫn nói
Rằng tôi đây uống mãi chẳng vừa,
Ra công uống hết biển kia
Làm cho biển chúa giang hà cạn khô.

495. Svāyaṃ hāyati ceva pūrate ca mahodadhi, nāssa nāyati pītanto apeyyo kira sāgaro ”ti.

6. Samuddajātakaṃ.

495. “Đại dương này đây tự cạn xuống và đầy lên (thủy triều lên xuống). Không nhận ra mức nước đã được uống của biển cả; nghe nói biển cả không thể bị uống cạn.”

6. Bổn sanh Biển Cả.

Dù biển cả có vơi dần nước,
Cũng lại đầy cùng một ngày thôi,
Nào ai làm biển được vơi?
Uống vào nước ấy kể thời thấm chi!

Câu chuyện 296

496. Ucce sakuṇa ḍemāna pattayāna vihaṅgama, vajjāsi kho tvaṃ vāmūruṃ ciraṃ kho sā karissati.  

496. “Này chim, trong khi di chuyển ở trên cao, này loài di chuyển bằng đôi cánh, này loài đi lại ở hư không, bạn có thể nói cho người vợ có cặp đùi xinh đẹp của tôi không? Đã quá lâu, nàng ấy sẽ thể hiện sự giận dữ!

Chim ơi, bay ở trên trời,
Chim mang cánh nọ, cao vời xa bay.
Vợ tôi, đùi đẹp lắm thay,
Nhắn dùm nàng, đã lâu rày phải chăng?

497. Idaṃ kho sā na jānāti asiṃ sattiñca oḍḍitaṃ, sā caṇḍī kāhati kodhaṃ taṃ me tapati no idha.

497. Nàng ấy thật sự không biết điều này, là việc gươm và giáo đã được dựng lên. Nàng ấy tàn nhẫn, sẽ thể hiện sự giận dữ; điều ấy làm tôi bực bội, không phải sự việc (tôi bị hành hạ) ở đây.

Nàng đâu biết tới đao, thương,
Giận hờn, nàng hẳn lắm đường so đo.
Việc kia, tôi sợ, tôi lo,
Chứ không do bị treo giò nơi đây!

498. Esa uppalasannāho nikkhamussīsake kataṃ, kāsikañca muduṃ vatthaṃ tappatu dhanakāmikā ”ti.

7. Kāmavilāpajātakaṃ.

498. Chiếc áo giáo màu xanh ấy, chiếc cà rá được đặt ở gối, và loại vải mềm mại của xứ Kāsi, hãy làm thỏa mãn cô nàng mong muốn tài sản.”7. Bổn sanh Lời Than Vãn Về Điều Mong Muốn.

Áo hoa sen, tôi nay bỏ lại,
Cùng ngọc ngà trên gối nằm kia.
Lụa Ba-la-nại mượt mà,
Ðể nàng thỏa ý cửa nhà giàu sang.

Câu chuyện 297

499. Udumbarā cime pakkā nigrodhā ca kapitthanā, ehi nikkhama bhuñjassu kiṃ jighacchāya mīyasi.

499. “Các cây sung, các cây đa, và các cây vú sữa này đã chín tới. Này bạn hãy đến, hãy đi ra ngoài, hãy ăn, việc gì bạn phải chết vì đói?”

Sung đã chín trên cây ngon đẹp,
Khỉ nhà ta được dịp no nê.
Cùng ta đến đó ăn đi,
Bạn ơi, nào phải sợ gì đói đâu?

500. Evaṃ so suhito hoti yo vaddhamapacāyati, yathāhamajja suhito dumapakkāni-m-āsito.

500. “Như vậy, người nào tôn kính bậc trưởng thượng, người ấy được lợi ích tốt đẹp, giống như tôi hôm nay, được lợi ích tốt đẹp, được ăn những trái cây chín.”

Hạnh phúc thay kẻ nào cảm phục
Và tôn sùng những bậc niên cao,
Tôi đây hạnh phúc làm sao!
Bao nhiêu trái ấy ăn vào thỏa thuê!

501. Yaṃ vanejo vanejassa vañceyya kapino kapi, daharopi taṃ na saddheyya na hi jiṇṇo jarākapī ”ti.

8. Udumbarajātakaṃ.

501. “Việc một con khi sanh ra ở rừng lường gạt một con khỉ khác cũng sanh ra ở rừng, ngay cả con khỉ nhỏ còn không thể tin vào điều ấy, thì con khỉ già cả, lão niên, càng không thể tin.”



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada