Những người dũng cảm quyên mình
Một lòng sốt sắng hy sinh cuộc đời,
Chốn nào họ đạt đến rồi,
Nơi kia chốc lát nữa tôi tới gần.

451. Seyyaṃso seyyaso hoti yo seyyamupasevati, ekena sandiṃ katvāna sataṃ vajjhe amocayiṃ.  

451. “Người thân cận với người tốt là tốt hơn, là tốt hơn một phần. Sau khi tạo sự kết giao với một người (bằng tâm từ ái), ta đã cứu thoát một trăm người khỏi phải chết.

Ðiều tốt nhất các khanh nên biết:
Việc tốt hơn hãy quyết lòng làm,
Kẻ kia, ta đối thiện tâm
Nên ta cứu tử được năm trăm người.

452. Tasmā sabbena lokena sandhiṃ katvāna ekako, pecca saggaṃ nigaccheyya idaṃ suṇotha kāsayo.  

452. Vì thế, này các cư dân xứ Kāsi, các người hãy lắng nghe điều này. Sau khi tạo sự kết giao với tất cả thế gian (bằng tâm từ ái), mỗi một cá nhân có thể sanh về cõi trời sau khi chết.”

Khuyên các khanh, với đời hãy tỏ
Vẻ khoan dung đức độ, hiền hòa,
Cõi trời, vào hết chẳng riêng
Dân Kà-si hỡi, hãy liền nghe ta.

253. Idaṃ vatvā mahārājā kaṃso bārāṇasiggaho, dhanuṃ tūṇiñca nikkhippa saṃyamaṃ ajjhupāgamī ”ti.

2. Seyyaṃsajātakaṃ. 

453. “Đại vương Kaṃsa, người cai trị thành Bārāṇasī, đã nói lời này: ‘Sau khi quăng bỏ cây cung và túi tên, ta đã đạt đến sự tự chế ngự (thiền chứng).’”

2. Bổn sanh Tốt Hơn Một Phần.

Ta là Ðại đế Ba-la-nại
Vua Kam-sa, có bấy nhiêu lời:
Cung tên ta đã bỏ rời,
Thành người tự thắng, ta thời nên công.

454. Varaṃ varaṃ tvaṃ nihanaṃ pure cari asmiṃ padese abhibhuyya sūkare, sodāni eko vyapagamma jhāyasi balannu te vyaggha na cajja vijjati.

454. “Trước đây, sau khi đã khuất phục các con heo rừng ở khu vực này, ông đã thực hiện việc giết chết con heo nào mập nhất, ngon nhất. Bây giờ, ông đây chỉ một mình phải trốn chạy và bực bội. Này ông cọp, phải chăng hôm nay sức mạnh của ông không hiện hữu?”

Mồi ngon nhất bạn luôn luôn được
Mỗi khi đi săn rượt heo rừng.
Bạn nay phiền muộn, tay không,
Nào đâu sức mạnh hào hùng trước đây?

455. Ime sudaṃ yanti disodisaṃ pure bhayaṭṭitā leṇagavesino puthu, te dāni saṃgamma rasanti ekato yattha ṭhitā duppasahajja me mayā.

455. “Trước đây, những con heo này chạy tứ tán. Bị khốn khổ vì sợ hãi, chúng tìm kiếm nơi nương náu một cách riêng rẽ. Giờ đây, chúng kết hợp lại, cùng nhau gào thét. Hôm nay, ta khó áp chế được chúng ở nơi chúng sinh sống.”

Trước kia chúng thường hay tháo chạy,
Tìm về hang, kinh hãi, tả tơi;
Nay thành hàng ngũ hẳn hoi,
Ðứng lên dũng mãnh, quyết đòi ta lui.

456. Namatthu saṅghānaṃ samāgatānaṃ disvā sayaṃ sakhyaṃ vadāmi abbhutaṃ, vyagghaṃ migā yattha jiniṃsu dāṭhino sāmaggiyā dāṭhabalesu muccare ”ti.

3. Vaḍḍhakīsūkarajātakaṃ. 

456. “Hãy tỏ sự kính nể đến các hội chúng đã được tập hợp lại, ta nói về tình bằng hữu kỳ diệu sau khi tự thân nhìn thấy. Nơi ấy, những con thú có răng nanh đã chiến thắng con cọp. Do sự hợp nhất giữa các con heo rừng mà chúng được tự do.”

3. Bổn sanh Con Heo Rừng Của Người Thợ Mộc.

Ta đã thấy một kết đoàn kỳ đặc
Vinh quang thay, những bộ tộc hợp quần!
Ðám heo rừng đã đánh hổ tan hoang
Bằng sức mạnh và sừng nanh hợp nhất.

Câu chuyện 283

457. Yaṃ ussukā saṅgharanti alakkhikā bahuṃ dhanaṃ, sippavanto asippā ca lakkhivā tāni bhuñjati.

 457. “Những người siêng năng gom góp được nhiều tài sản không do vận may, còn những người có nghề nghiệp hoặc không có nghề nghiệp có vận may thọ hưởng chúng.

Những của cải do mình tạo dựng,
Chẳng phải nhờ may mắn mà thành,
Do ơn thần nữ phúc lành
Người hay, kẻ dở đều dành phần cho.

458. Sabbattha katapuññassa aticcaññeva pāṇino, uppajjanti bahū bhogā appanāyatanesupi.  

458. Ở tất cả các nơi, nhiều của cải sanh lên cho người đã có tạo phước (trước đây) vượt trội những chúng sinh khác, thậm chí ở một số ít trường hợp không phải là đối tượng thích hợp.”

Trên cuộc thế sờ sờ lắm kẻ
Thiện hiền hay ác tệ hung tàn,
Cuối cùng được hưởng giàu sang,
Ðúng ra nào phải là phần họ đâu?

459. Kukkuṭamaṇayo daṇḍā thiyo ca puññalakkhaṇā, uppajjanti apāpassa katapuññassa jantuno ”ti.

4. Sirijātakaṃ. 

459. “Con gà trống, các viên ngọc ma-ni, các cây gậy, và những người phụ nữ có phước tướng sanh lên cho người không ác độc, đã có tạo phước (trước đây).”

4. Bổn sanh Sự May Mắn.

Gà kia, ngọc nọ, gậy này,
Rồi người vợ nữa, vận may luân hành.
Cho hay một kẻ thiện lành
Kho tàng kia vẫn được dành phần riêng.

Câu chuyện 284

460. Dariyā sattavassāni tiṃsamattā vasāmase, hañjema maṇino ābhaṃ iti no mantitaṃ ahu.

460. “Chúng tôi gồm ba mươi mạng sống ở hang được bảy năm. ‘Chúng ta hãy hủy ánh sáng của ngọc ma-ni,’ chúng tôi đã có suy nghĩ như thế.

Ba chục chúng tôi đã sống trong
Vẻ sáng động kia nay nhọc sức,
Chúng tôi chẳng thể vấy dơ xong.

461. Yāva yāva nighaṃsāma bhiyyo vodāyate maṇi, idañcadāni pucchāma kiṃ kiccaṃ idha maññasi.  

461. Chúng tôi càng chà xát chừng nào thì ngọc ma-ni càng trong sáng thêm. Vậy giờ đây, chúng tôi hỏi điều này: ‘Ở đây, ông nghĩ việc nên làm là việc gì?’”

Dù đã tốn công đem hết sức,
Làm lu mờ bóng sáng kia đi,
Bóng kia càng sáng hơn lên mãi,
Xin hỏi chẳng hay duyên cớ gì?

462. Ayaṃ maṇi veḷuriyo akāco vimalo subho, nāssa sakkā siriṃ gantuṃ apakkamatha sūkarā ”ti.

5. Maṇisūkarajātakaṃ.

462. “Ngọc ma-ni này là ngọc bích, không tì vết, không vết nhơ, chói sáng, các ngươi không thể nào hủy được sự chói sáng, các heo rừng hãy lánh xa.”

5. Bổn sanh Ngọc Ma-ni Và Heo Rừng.

Thủy tinh kia quý giá dường bao,
Trong sáng, luôn luôn rực ánh hào,
Tuyệt chẳng vật gì ngăn vẻ sáng,
Heo nên dời chỗ ở đi nào!

Câu chuyện 285

463. Mā sālukassa pihayi āturannāni bhuñjati, appossukko bhusaṃ khāda etaṃ dīghāyulakkhaṇaṃ.  

463. “Chớ mong cầu (cuộc sống) của Sāluka, nó ăn thức ăn (vỗ béo) của kẻ sắp bị giết. Em hãy ít đòi hỏi, hãy nhai rơm rạ; điều ấy là dấu hiệu của cuộc sống thọ.

Chớ ganh với món Liên căn,

Ðồ ăn của nó là phần tử vong,
Rạ rơm kia, hãy bằng lòng,
Dài lâu cuộc sống, riêng phần của em.

464. Idāni so idhāgantvā atithi yuttasevako, atha dakkhisi sālukaṃ sayantaṃ musaluttaraṃ.  

464. Giờ đây, người khách ấy, sau khi đi đến nơi này, là người phục vụ đã được giao phó. Rồi em sẽ nhìn thấy Sāluka (bị giết chết) nằm dài với phần môi phía trên.”

Chẳng bao lâu khách quen sẽ tới,
Chuyện trò vui, cười nói này kia,
Liên căn sẽ bị chặt ra,
Với mồm há bẹp thật là đáng thương.

465. Vikantaṃ sūkaraṃ disvā sayantaṃ musaluttaraṃ, jaraggavā vicintesuṃ varamhākaṃ bhusāmivā ”ti.

6. Sālukajātakaṃ. 

465. “Sau khi nhìn thấy con heo bị xẻ banh, nằm dài với phần môi phía trên, hai con bò già đã cân nhắc rằng: ‘Chỉ có rơm rạ là tuyệt vời cho chúng ta.’”

6. Bổn sanh Con Heo Sāluka.

Thấy Liên căn trăm đường tội nghiệp
Bị chặt rời, mõm bẹp phơi bày,
Ðôi bò mới tỏ nói lời này:
Rạ rơm thô thiển tốt may hơn nhiều.

Câu chuyện 286

466. Nānummatto nāpisuno nānaṭo nākutūhalo, mūḷhesu labhate lābhaṃ esā te anusāsanī.

466. “Trong số những người bị mê mờ, kẻ nhận được lợi lộc không phải là kẻ không bị điên, không phải là kẻ không nói đâm thọc, không phải là kẻ không nhảy múa, không phải là kẻ không nói lung tung; sự giáo huấn này là dành cho ngươi.”

Kẻ cuồng si, kẻ chuyên lời phỉ báng,
Kẻ tinh ranh như những bọn phường chèo.
Kẻ nói ác, đều thu lợi thật nhiều,
Châm ngôn ấy, giữa đám người điên loạn.

467. Dhiratthu taṃ yasalābhaṃ dhanalābhañca brāhmaṇa, yā vutti vinipātena adhammacariyāya vā.  

467. “Thưa Bà-la-môn, thật xấu hổ thay việc đạt được danh vọng và đạt được tài sản theo lối hành xử với sự hủy hoại hoặc với việc làm sai pháp.

Hổ thẹn thay kẻ nào
Thâu đạt lợi danh vào
Bằng hủy diệt tàn hại,
Bằng tội lỗi gắt gao.

468. Api ce pattamādāya anāgāro paribbaje, esāva jīvikā seyyo yā cādhammena esanā ”ti.

7. Lābhagarahajātakaṃ. 

468. Và hơn nữa, vị (xuất gia) không nhà nên cầm lấy bình bát hành hạnh du sĩ, chính sự nuôi mạng ấy là tốt hơn việc tầm cầu sai pháp.”

7. Bổn sanh Chê Trách Lợi Lộc.

Trong tay một bình bát,
Theo cuộc đời không nhà
Còn hơn theo kiếp sống
Tham lam và ác tà.

Câu chuyện 287

469. Agghanti macchā adhikaṃ sahassaṃ na so atthi yo imaṃ saddaheyya, mayhañca assu idha satta māsā ahampi taṃ macchuddānaṃ kiṇeyyaṃ.  

469. “Những con cá trị giá hơn một ngàn, không có người nào có thể tin chuyện này. Còn đối với tôi, ở đây đã là bảy xu, tôi cũng đã mua phần cá dành riêng ấy.”

Nào ai tin được chuyện này
Mấy con cá nọ giá ngay ngàn đồng,
Ta đây chỉ bảy hào con,
Mong gì mua được cá tròn một dây?

470. Macchānaṃ bhojanaṃ datvā mama dakkhiṇamādisi, taṃ dakkhiṇaṃ sarantiyā kataṃ apacitiṃ tayā.

470. “Sau khi cho thức ăn đến những con cá, ngài đã đề cập đến việc cúng dường đến ta. Trong khi ta nhớ lại sự cúng dường ấy, sự nể vì đã được ta thực hiện.

Người cho lũ cá ăn
Cúng dường ta có phần,
Ta ghi công đức ấy
Và đạo tâm vẹn toàn.

471. Paduṭṭhacittassa na phāti hoti na cāpi naṃ devatā pūjayanti, yo bhātaraṃ pettikaṃ sāpateyyaṃ avañcayī dukkatakammakārī ”ti. 

8. Macchuddānajātakaṃ. 

471. Không có sự hưng thịnh dành cho kẻ có tâm xấu xa, và các Thiên thần cũng không cúng dường kẻ ấy, kẻ đã lừa gạt, đã làm hành động sái quấy đối với người anh trai về tài sản (thừa kế) của cha.”

8. Bổn sanh Phần Cá Dành Riêng.

Tâm địa xấu, dối lừa, trộm cắp,
Gạt anh em mong đạt gia tài;
Ác tâm nào gặp vận may,
Quỉ thần chẳng chút tỏ bày kính tâm.

Câu chuyện 288

472. Nānācchandā mahārāja ekāgāre vasāmase, ahaṃ gāmavaraṃ icche brāhmaṇī ca gavaṃ sataṃ.

472. “Tâu đại vương, chúng tôi sống trong một ngôi nhà với những mong muốn khác nhau, tôi thích ân huệ là ngôi làng, còn người vợ Bà-la-môn thích một trăm bò sữa.

Chúng tôi chung sống một nhà,
Ý này ý nọ chia ra mỗi người!
Trăm bò sữa, ý vợ tôi;
Còn tôi thì muốn một ngôi làng giàu;

473. Chatto ca ājaññarathaṃ kaññā ca maṇikuṇḍalaṃ, yā cesā puṇṇikā jammī udukkhalaṃ abhikaṅkhati.  

473. Con trai thích cỗ xe kéo bởi ngựa thuần chủng, con gái thích bông tai ngọc ma-ni, còn đứa tớ gái hèn hạ ấy mong mỏi cái cối giã.”

Trai ưa ngựa kéo xe sau;
Hoa tai gắn ngọc, mong cầu gái kia;
Punnà bé nhỏ, nữ tỳ
Nói rằng nàng muốn cối đi cùng chày!

474. Brāhmaṇassa gāmavaraṃ detha brāhmaṇiyā gavaṃ sataṃ, puttassa ājaññarathaṃ kaññāya maṇikuṇḍalaṃ, yañcetaṃ puṇṇikaṃ jammiṃ paṭiyādetha udukkhalan ”ti.

9. Nānācchandajātakaṃ. 

474. “Trẫm ban cho người Bà-la-môn ân huệ là ngôi làng, cho người vợ Bà-la-môn một trăm bò sữa, cho người con trai cỗ xe kéo bởi ngựa thuần chủng, cho người con gái bông tai ngọc ma-ni, và trẫm thí cho đứa tớ gái hèn hạ ấy cái cối giã.”

9. Bổn sanh Các Mong Muốn Khác Nhau.

Hãy cho người vợ trăm bò;
Người chồng tốt bụng được cho ngôi làng;
Hoa tai ngọc tặng cô nàng;
Xe đôi ngựa kéo gởi chàng trai kia;
Còn cô giúp việc trong nhà
Trao cho chày cối - Thế là thỏa chung.

Câu chuyện 289

475. Sīlaṃ kireva kalyāṇaṃ sīlaṃ loke anuttaraṃ, passa ghoraviso nāgo sīlavāti na haññati.

475. “Nghe nói giới là tốt lành, giới là vô thượng ở thế gian. Hãy nhìn xem con rồng dữ tợn, có nọc độc, không bị giết chết vì ‘có giới hạnh.’

Cho rằng Ðức hạnh đáng yêu
Người ta tôn quí bao nhiêu trên đời.
Xem kia! Rắn độc chết người,
Bảo rằng nó tốt, chẳng đòi chết ngay.

476. Sohaṃ sīlaṃ samādissaṃ loke anumataṃ sivaṃ, ariyavuttisamācāro yena vuccati sīlavā.

476. Tôi đây sẽ thọ trì giới, sự an toàn đã được chứng thực ở thế gian. Người có sự thực hành lối sống của bậc Thánh được gọi là ‘người có giới.’

Tôi nay bảo, khắp đầy trần thế
Ðức hạnh là tôn quí đáng yêu:
Kẻ nào đạo đức vẫn nêu
Con đường đạo quả bước theo mãi hoài.

477. Ñātīnañca piyo hoti mittesu ca virocati, kāyassa bhedā sugatiṃ upapajjati sīlavā ”ti.

10. Sīlavīmaṃsajātakaṃ. 

477. Người có giới được các thân nhân yêu quý, và chói sáng trong số những bạn bè, khi thân này bị tan rã sẽ tái sanh vào chốn an vui.”

10. Bổn sanh Suy Xét Về Giới.

Tình thân thiết, sáng ngời chúng bạn
Rồi đến khi số tận mạng chung,
Kẻ nào tích đức sẵn sàng
Cõi trời, kẻ ấy được phần tái sinh.

Câu chuyện 290

Abbhantaravaggo catuttho.

***** 

Phẩm Chính Giữa là thứ tư.

*****

TASSUDDĀNAṂ

Dumakaṃsavaruttamabyagghamigā maṇiyo maṇi sālukamavhayano, anusāsaniyopi ca macchavaro maṇikuṇḍalakena kirena dasā ”ti.

--ooOoo--



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada