Ta chẳng khùng đâu, biết rõ ông,
Ta đây, dòng giống của tôn tông.
Còn ông vẫn thế, rắp tâm hại,
Ẩn giả, ta đây phải ngại ngùng.
439. Kamatthamabhisandhāya lahucittassa dūbhino, sabbakāmaduhasseva idaṃ dukkhaṃ titikkhasi.
439. “Đối với con khỉ, kẻ có tâm khinh suất, bội bạc, có thái độ như là của người ban cho mọi điều mong muốn (có thái độ như là của chủ nhân), liên quan đến lợi ích gì gì mà ngài chịu đựng khổ đau này?
Sao ngài vẫn kiên trì
Chịu đựng chuyện kỳ quặc,
Khỉ hỗn hào ích kỷ
Quấy phá ngài lắm khi?
440. Siṅgena nihanāhetaṃ padasā ca adhiṭṭhaha, bhīyo bālā pakujjheyyuṃ no cassa paṭisedhako.
440. Bạn hãy quật ngã con thú này bằng sừng và hãy dẫm đạp nó bằng bàn chân. Và nếu không có người ngăn chặn, những kẻ ngu dốt có thể quậy phá nhiều hơn nữa.”
Hãy đạp nó bằng chân
Hãy đâm nó bằng sừng,
Phải liền ngăn cản nó
Kẻo bọn trẻ khinh lờn.
441. Mamevāyaṃ maññamāno aññampevaṃ karissati, te taṃ tattha vadhissanti sā me mutti bhavissatī ”ti.
8. Mahisajātakaṃ.
441. “Nó cũng sẽ làm như vậy với kẻ khác trong khi nghĩ rằng kẻ này chính là ta. Trong trường hợp ấy, chúng sẽ giết chết nó, sự giải thoát (khỏi việc) ấy sẽ có cho ta.”
8. Bổn sanh Con Trâu.
Nếu nó quấy kẻ khác,
Như đã quấy ta đây,
Nó liền bị hạ sát,
Ta sẽ thảnh thơi ngay.
442. Yathā māṇavako panthe sigāliṃ vanagocariṃ, atthakāmaṃ pavedentiṃ anatthakāmāti maññati, anatthakāmaṃ satapattaṃ atthakāmoti maññati.
442. “Giống như chàng trai trẻ trên đường đi nghĩ rằng con chó rừng cái–đi kiếm ăn ở khu rừng, có ý định tốt, đang (tìm cách) thông báo (tai họa)–là ‘kẻ có ý định không tốt,’ và nghĩ rằng con chim gõ kiến–có ý định không tốt– là ‘kẻ có ý định tốt.’”
Như chàng trai trẻ trên đường,
Chó rừng ấy đã làm chùng bước chân.
Chàng ta nhầm tưởng ác nhân,
Nào ngờ là kẻ cho chàng điều hay.
Lại nhầm Hạc chính bạn ngay,
Trong khi Hạc lại quyết bày ác mưu.
443. Evameva idhekacco puggalo hoti tādiso, hitehi vacanaṃ vutto patigaṇhāti vāmato.
443. Tương tự y như vậy, một người nào đó, ở đây, là thuộc hạng người như vậy, khi được nói lời nói với những điều lợi ích, thì tiếp thu ngược lại.
Nay có kẻ được nhiều bạn tốt,
Lại hiểu lầm sai sót bạn hiền,
Tai không nghe tiếng bạn khuyên
Những điều tốt đẹp dành riêng cho mình.
444. Ye ca kho naṃ pasaṃsanti bhayā ukkaṃsayanti ca, tañhi so maññate mittaṃ satapattaṃva māṇavo ”ti.
9. Satapattajātakaṃ.
444. Và thật vậy, những người nào khen ngợi và tán dương kẻ ấy do sự sợ hãi, kẻ ấy nghĩ rằng chính người kia là bạn bè, tựa như chàng trai trẻ nghĩ về con chim gõ kiến.”
9. Bổn sanh Con Chim Gõ Kiến.
Hễ người ca tụng mới tin,
Ấy điều hung xấu đã liền hé ra:
Như chàng trai trẻ ngày xưa
Yêu con Hạc nọ bay qua đầu mình.
445. Addhā hi nūna migarājā puṭakammassa kovido, tathāhi puṭaṃ dūseti aññaṃ nūna karissati.
445. “Có lẽ vua loài thú đương nhiên là rành rẽ về việc làm giỏ. Bởi vì, gã làm hỏng cái giỏ như thế này, có lẽ gã sẽ làm cái khác.”
Hẳn chúa đàn có tài khéo léo
Làm giỏ kia lắm nẻo công phu,
Ðời nào ông lại làm hư
Trừ phi giỏ khác ông trù làm thêm.
446. Na me pitā vā mātā vā puṭakammassa kovido, kataṃ kataṃ kho dūsema evaṃ dhammamidaṃ kulaṃ.
446. “Cha tôi hoặc mẹ tôi là không rành rẽ về việc làm giỏ. Chúng tôi quả thật làm hỏng từng cái giỏ đã được làm ra; gia tộc có tập quán này như vậy.”
Từ cha mẹ đến tôi nữa đó,
Có thế nào làm giỏ như người?
Người làm, ta xé rã rời
Tính riêng loài khỉ truyền đời là đây!
447. Yesaṃ vo ediso dhammo adhammo pana kīdiso, mā vo dhammaṃ adhammaṃ vā addasāma kudācanan ”ti.
10. Puṭadūsakajātakaṃ.
447. “Việc như thế này đối với các bạn đây là tập quán, thế thì việc như thế nào là phi tập quán? Chớ để chúng tôi nhìn thấy tập quán hay phi tập quán các bạn vào bất cứ lúc nào.”
Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada