Tôi biết bạn còn phải muộn phiền,
Cũng do bản tính bạn gây nên.
Ai đâu để thịt mời chim nhỏ,
Khi đã dọn thành một đĩa lên?

430. Kāyaṃ balākā rucirā kākanīḷasmiṃ acchati, caṇḍo kāko sakhā mayhaṃ tassa cetaṃ kulāvakaṃ.

430. “Con hạc nâu xinh xắn này là ai mà ngụ ở trong ổ của con quạ? Con quạ bạn của tôi là dữ tợn, và cái tổ này là của nó.”

Hạc kia xinh đẹp là ai,
Cớ sao chú đến nơi đây mà nằm?
Bạn tôi, anh Quạ dữ dằn,
Tổ anh ta đó, tôi cần chú hay!

431. Nanu maṃ samma jānāsi dija sāmākabhojana, akatvā vacanaṃ tuyhaṃ passa lūnosmi āgato.

431. “Này bạn, chẳng lẽ bạn không biết tôi? Này chim (bồ câu), này loài có thức ăn là hạt kê, sau khi không làm theo lời nói của bạn, bạn hãy nhìn xem tôi đã đi đến tình trạng bị vặt trụi lông.”- Bạn chẳng nhận ra tôi sao bạn?
Ta cùng nhau thường vẫn đi ăn.
Chẳng làm như được bảo răn,
Nên lông bị vặt, bạn trông rõ ràng!

432. Puna pāpajjasi samma sīlaṃ hi tava tādisaṃ, na hi mānusakā bhogā subhuñjā honti pakkhinā ”ti.

5. Rucirajātakaṃ. 

432. “Này bạn, bạn lại phạm vào điều ác, bởi vì bản chất của bạn là như thế ấy, bởi vì của cải thuộc con người là không dễ gì thọ dụng bởi loài chim.”

5. Bổn sanh Con Chim Xinh Xắn.

- Tôi biết bạn hãy còn phiền muộn,
Ðó là do tính bạn mà thôi.
Người ta làm đĩa thịt rồi,
Phải đâu là để đem mời chim ăn!

433. Tava saddhañca sīlañca viditvāna janādhipa, vaṇṇaṃ añjanavaṇṇena kāliṅgasmiṃ nimimhase.  

433. “Tâu quân vương, biết được đức tin và giới hạnh của ngài, chúng tôi, thay mặt vua xứ Kāliṅga, xin trao đổi vàng bạc lấy con voi Añjanavaṇṇa.”

Biết ngài tín hạnh cao sâu,
Chúng tôi đến để mong cầu ngài đây:
Chỉ vì muốn có voi này,
Chúng tôi tiêu hết tiền tài quốc gia.

434. Annabhaccā ca bhaccā ca yodha uddissa gacchati, sabbe te appaṭikkhippā pubbācariyavaco idaṃ.

434. “Người nào đi đến nơi này liên quan đến việc phục dịch kiếm ăn và không phục dịch, tất cả bọn họ đều không bị xua đuổi; điều này là lời dạy của các bậc cha mẹ (vị thầy đầu tiên).”

Các người có làm sao chăng ấy,
Ta vẫn theo thầy dạy ngày xưa:
Hễ ai đã đến với ta,
Ta luôn chào đón, thiết tha mọc mời!

435. Dadāmi vo brāhmaṇā nāgametaṃ rājārahaṃ rājabhoggaṃ yasassinaṃ, alaṅkataṃ hemajālābhichannaṃ sasārathiṃ gacchatha yena kāman ”ti.

6. Kurudhammajātakaṃ. 

435. “Này các Bà-la-môn, trẫm sẽ ban cho các khanh con voi ấy, (là con voi) có danh tiếng, xứng đáng với vua, thuộc sở hữu của vua, (con voi) đã được trang điểm, đã được choàng lên bằng tấm lưới vàng, cùng với viên quản tượng. Các khanh hãy ra đi theo như ý thích.”



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada