Trong các loài Cua ở biển xa,
Hoặc là Ner-bud, hoặc Hằng Hà,
Ngài là tối thượng, nay tôi biết,
Xin để chồng tôi được thoát ra.
409. Yo ve sabbasametānaṃ ahuvā seṭṭhasammato, tassāyaṃ edisī paññā kimeva itarā pajā.
409. “Gã này hẳn nhiên đã được công nhận là hạng nhất trong tất cả bọn này. Trí tuệ của gã là như thế này, còn các gã khác sẽ là cái gì nữa đây?”
Giỏi nhất trong bọn là đây,
Thông minh như kiểu thế này được sao?
Khỉ kia nếu chọn tối cao,
Những tên còn lại phận nào định đây?
410. Evameva tuvaṃ brahme anaññāya vinindasi, kathaṃ mūlaṃ adisvāna rukkhaṃ jaññā patiṭṭhitaṃ.
410. “Thưa Bà-la-môn, ngài không biết rõ nên mới chê bai như vậy. Không nhìn thấy cái rễ, làm thế nào có thể biết được cây đã phát triển như thế nào?”
Lời kia, người cũng chẳng hay,
Thế này trách cứ la rầy chúng tôi!
Nếu không biết rễ ngắn dài,
Làm sao thấy được cây trồi lớn đây?
411. Nāhaṃ tumhe vinindāmi ye caññe vānarā vane, vissasenova gārayho yassatthā rukkharopakā ”ti.
8. Ārāmadūsakajātakaṃ.
411. “Ta không chê bai ngươi và những con khỉ khác ở trong rừng. Chính đức vua Vissasena mới đáng chê trách, vì ngài sử dụng những kẻ trồng cây (như các ngươi).”
8. Bổn sanh Kẻ Làm Hỏng Khu Vườn.
Khỉ ơi, ta chẳng trách bây,
Cũng không trách bọn đó đây trong rừng.
Chủ kia mới thật điên khùng,
Ra đi giao hết cây trồng nhờ coi!
412. Na hi vaṇṇena sampannā mañjukā piyadassanā, kharavācā piyā honti asmiṃ loke paramhi ca.
412. “Người được thành tựu sắc đẹp, có giọng nói du dương, có dáng vẻ đáng yêu, nhưng có lời nói thô lỗ thì không được yêu mến ở đời này và đời khác.
Kẻ hưởng được vẻ ngoài duyên dáng,
Thoạt nhìn vào, tươi sáng đẹp thay,
Nhưng buông lời nói chối tai,
Ðời này đời kế chẳng ai yêu vì!
413. Nanu passasimaṃ kāḷiṃ dubbaṇṇaṃ tilakāhataṃ, kokilaṃ saṇhabhāṇena bahunnaṃ pāṇinaṃ piyaṃ.
413. Chẳng phải mẹ nhìn thấy con chim cu cu đen đủi, có màu sắc xấu xí, lốm đốm các chấm hạt mè, được yêu mến bởi nhiều sinh vật nhờ vào tiếng kêu êm dịu.
Chim Cu kia, thường khi mẹ thấy,
Lốm đốm đen xấu vậy mặc dầu,
Tiếng kêu êm dịu ngọt ngào,
Bao nhiêu kẻ đón người chào mến thương.
414. Tasmā sakhilavācassa mantabhāṇī anuddhato, atthaṃ dhammañca dīpeti madhuraṃ tassa bhāsitan ”ti.
9. Sujātajātakaṃ.
414. Vì thế, nên có lời nói tử tế, có cách nói khôn khéo, không cao ngạo, làm sáng tỏ ý nghĩa và Giáo Pháp; lời nói của vị ấy là ngọt ngào.”
9. Bổn sanh Nàng Sujātā.
Mong tiếng mẹ dịu dàng thanh lịch,
Lời khôn ngoan bỏ hết tự kiêu,
Âm thanh êm ái mỹ miều
Giảng bày Thánh pháp ý nêu tỏ tường.
415. Sabbehi kira ñātīhi kosiyo issaro kato, sace ñātīh’ anuññāto bhaṇeyyāhaṃ ekavāciyaṃ.
415. “Nghe nói chim cú được các bà con lập làm chúa tể, nếu được bà con cho phép, tôi xin phát biểu một lời.”
Cú là vua của các loài chim, Xin phép, cho tôi tỏ nỗi niềm.
416. Bhaṇa samma anuññāto atthaṃ dhammañca kevalaṃ, santi hi daharā pakkhī paññāvanto jutindharā.
416. “Này bạn, hãy nói, bạn được phép nói lời có ý nghĩa và thật sự hợp lý lẽ, bởi vì còn có những con chim còn trẻ, có trí tuệ, sáng láng.”
Giữa bọn trẻ kia, xin cứ nói,
Mong sao tốt đẹp, tỏ tường thêm.
417. Na me ruccati bhaddaṃ vo ulūkassābhisecanaṃ, akuddhassa mukhaṃ passa kathaṃ kuddho karissatī ”ti.
10. Ulūkajātakaṃ.
417. “Sự việc trọng đại của các vị không làm tôi vui thích, là việc phong vương cho chim cú. Hãy nhìn xem khuôn mặt của gã khi không giận dữ, khi giận dữ gã sẽ làm thế nào?”
10. Bổn sanh Con Chim Cú.
Trân trọng trình bày ý của tôi,
Tôi đây chẳng muốn Cú lên ngôi,
Hãy nhìn mặt mũi kia như thế,
Hắn sẽ làm gì lúc giận sôi?
Padumavaggo dutiyo.
*****
Phẩm Padumavaggo là thứ nhì.
*****
TASSUDDĀNAṂ
Padumuttamanāgasirivhayano samahaṇṇavayūpakhurappavaro, atha kundalikuñjararukkha puna kharavāca-ulūkavarena dasā ”ti.
--ooOoo--
Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada