Nếu từ chối chàng trai sang trọng
Ðến bên nàng mong ngóng yêu đương,
Nàng đành dằng dặc sầu thương,
Như Công-đa-lợi đau buồn Như phong!
406. Siṅgī migo āyatacakkhunetto aṭṭhittaco vārisayo alomo, tenābhibhūto kapaṇaṃ rudāmi mā heva maṃ pāṇasamaṃ jaheyya.
406. “Con thú có màu vàng sẫm, có cặp mắt lồi ra, có lớp vỏ bằng xương, sống trong nước, không có lông. Bị nó chế ngự, tôi khóc lóc một cách thảm thương, Nàng chớ bao giờ từ bỏ tôi, người sánh bằng mạng sống của nàng.”
Con vật càng vàng, lồi cặp mắt,
Sống hồ, trần trụi, bọc trong mai,
Tôi kêu, nó kẹp, nghe đau đớn,
Nàng hỡi, thương tôi, chớ bỏ tôi!
407. Ayya taṃ na jahissāmi kuñjara saṭṭhihāyana, pathavyā cāturantāya suppiyo hosi me tuvaṃ.
407. “Chàng ơi, thiếp sẽ không từ bỏ chàng, hỡi chàng voi với sự suy nhược ở tuổi sáu mươi. Khắp bốn phương ở trên trái đất, chàng là người vô cùng yêu quý của thiếp.”
Rời chàng, thiếp quyết chẳng khi nào,
Sáu chục năm đời, chúa tối cao,
Cả bốn phương trời đều chứng tỏ
Chẳng ai thắm thiết sánh chàng đâu!
408. Ye kuḷirā samuddasmiṃ gaṅgāya nammadāya ca, tesaṃ tvaṃ vārijo seṭṭho muñca rodantiyā patin ”ti.
7. Kakkaṭakajātakaṃ.
408. “Trong số các con cua ở biển cả, ở sông Gaṅgā, và sông Nammadā, ngài là loài thủy tộc hạng nhất, xin ngài hãy phóng thích người chồng của thiếp, kẻ đang khóc lóc (van xin cho chồng).”
Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada