Niềm vui ấy cho tôi thắng lợi,
Tôi liều thân nếu tới lúc cần,
Hành vi dũng liệt muốn toàn,
Làm anh hùng, phải coi thường đời ta!

403. Yenāsi kisiyā paṇḍu yena bhattaṃ na ruccati, ayaṃ so āgato tāto kasmādāni palāyasi.

403. “Người tình khiến mẹ ốm o, vàng vọt, lý do khiến thức ăn không còn được ưa thích, người tình ấy đã đi đến, vì sao giờ đây mẹ lại thoái lui?”

Mẹ vì chàng ốm o vàng vọt,
Mẹ vì chàng chẳng chút uống ăn.
Ngựa yêu kia mới đến gần,
Cớ sao mẹ bỗng đâm sầm phóng đi?

404. Sace panādikeneva santhavo nāma jāyati, yaso hāyati itthīnaṃ tasmā tāta palāyahaṃ.

404. “Vả lại, nếu ngay từ lúc đầu, điều gọi là sự thân mật sanh khởi, thì danh dự của hàng phụ nữ bị mất mát, này con, vì thế mẹ đã thoái lui.”

Chàng kia đến một khi kề sát,
Nếu ban đầu nhường bước tức thời,
Tiêu ma giá ngọc cao vời,
Cho nên mẹ phải vội dời chân ngay!

405. Yasassīnaṃ kule jātaṃ āgataṃ yā na icchati, socati cirarattāya vātaggamiva kundalī ”ti.

6. Vātaggajātakaṃ.

405. “Người nữ nào không ưa thích người nam sanh ở gia tộc của những người có danh tiếng đã đi đến (với mình), thì sẽ sầu muộn thời gian dài, tựa như con lừa cái Kundalī và con ngựa Vātagga.”



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada