Hai đứa nói nhảm nhí,
Chúng nghĩ được bông sen,
Dầu nói có, nói không,
Mũi cũng không mọc lại,
Này bạn hãy cho tôi
Hoa sen, tôi xin bạn!

391. Pāṇi ce muduko cassa nāgo cassa sukārito, andhakāro ca vasseyya atha nūna tadā siyā.  

391. “Nếu có được bàn tay mềm mại, và có được con voi đã khéo được huấn luyện, trời tối, và có thể mưa, như vậy chắc chắc khi ấy là có thể.”

Một bàn tay mềm mại,
Con voi khéo huấn luyện,
Và đêm tối trời mưa,
Ấy là thời thích hợp.

392. Analā mudusambhāsā duppūrā tā nadīsamā, sīdanti naṃ viditvāna ārakā parivajjaye.

392. “Các nàng ấy có lối nói mềm mỏng, không hề biết đủ, tựa như dòng sông, khó làm cho tràn đầy, các nàng ấy (sẽ) đọa (địa ngục); sau khi biết được điều ấy, nên lánh xa các nàng.

Dầu lời nói dịu dàng
Chúng không hề biết đủ,
Chúng chìm, chìm sâu xuống,
Rất khó làm đầy tràn,
Ðàn ông hãy lánh xa,
Chạy trốn chúng thật xa!

393. Yaṃ etā upasevanti chandasā vā dhanena vā, jātavedova saṇṭhānaṃ khippaṃ anudahanti nan ”ti.

2. Mudupāṇijātakaṃ.

393. Các nàng hầu hạ người nào, dầu do sự mong muốn hay vì tài sản, các nàng thiêu hủy người ấy một cách mau chóng, tựa như ngọn lữa đốt cháy nhiên liệu.”



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada