Do vậy, thật lành thay
Tiết độ, không tham ăn,
Không biết lường, chìm xuống,
Biết lường đâu có chìm?

373. Jarūdapānaṃ khaṇamānā vāṇijā udakatthikā, ajjhagaṃsu ayo lohaṃ tipusīsañca vāṇijā, rajataṃ jātarūpañca muttā veḷuriyā bahū.

373. “Những người thương buôn có nhu cầu về nước, trong khi đào bới cái giếng cũ, các thương buôn đã đạt được nhiều sắt, đồng, thiếc và chì, bạc và vàng, ngọc trai, ngọc bích.

Các lái buôn cần nước,
Ðào cái giếng cũ xưa,
Ở đó họ tìm được
Sắt, đồng, chì và thiếc,
Hoàng kim và bạch ngân,
Nhiều trân châu, lưu ly.

374. Te ca tena asantuṭṭhā bhiyyo bhiyyo akhāṇisuṃ, te tatthāsīviso ghoro tejassī tejasā hani.

374. Và bọn họ, không vừa lòng với chừng ấy, đã đào thêm, thêm nữa. Họ đã bị con rắn độc ghê rợn, có uy lực, giết chết tại nơi ấy bằng uy lực.

Nhưng họ không biết đủ,
Cứ đào, đào thêm mãi.
Các rắn độc điên tiết,
Phun lửa giết chết tiệt.

375. Tasmā khaṇe nātikhaṇe atikhātaṃ hi pāpakaṃ, khātena ca dhanaṃ laddhaṃ atikhātena nāsitan ”ti.

6. Jarūdapānajātakaṃ. 

375. Vì thế, nên đào, không nên đào quá, bởi vì đào bới quá lố là xấu xa. Và do đào bới, tài sản đã đạt được; do đã đào bới quá lố, tài sản bị tiêu tán.”



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada