Nhưng ông rõ biết tôi
Là ngựa nòi tối thượng,
Do vậy ở chỗ ông,
Tôi không ăn cháo gạo!
370. Yāva so mattamaññāsi bhojanasmiṃ vihaṅgamo, tāva addhānamāpādi mātarañca aposayi.
370. “Cho đến chừng nào con chim ấy còn biết chừng mực về vật thực, cho đến khi ấy nó còn đạt được tuổi thọ và còn cung phụng người mẹ.
Khi nào con chim ấy
Biết đủ trong ăn uống,
Chim được thọ mạng dài,
Và nuôi dưỡng cha mẹ.
371. Yato ca kho bahutaraṃ bhojanaṃ ajjhupāhari, tato tattheva saṃsīdi amattaññū hi so ahu.
371. Và thật vậy, vào lúc nó đã thu nạp vật thực nhiều hơn trước, sau đó, nó đã bị chìm xuống ngay tại chỗ ấy, bởi vì nó đã không biết chừng mực.
Khi chim ăn quá nhiều,
Không biết sự tiết độ,
Tại đấy chim chìm xuống,
Không còn ai thấy nữa.
372. Tasmā mattaññutā sādhu bhojanasmiṃ agiddhatā, amattaññū hi sīdanti mattaññūva na sīdare ”ti.
5. Sukajātakaṃ.
372. Do đó, thật tốt đẹp thay sự biết chừng mực, sự không thèm khát về vật thực. Chính những người không biết chừng mực chìm xuống, còn những người biết chừng mực không chìm xuống.”
Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada