Loài ngưi thưng ăn ớp,
Khi nào thấy được lợi,
Khi ngưi khác ăn cướp,
Kẻ bị cưp, cướp lại.

335. Sabbo jano hiṃsito piṅgalena tasmiṃ mate paccayaṃ vedayanti, piyo nu te āsi akaṇhanetto kasmā nu tvaṃ rodasi dvārapāla.

335. “Tất cả dân chúng đều bị vua Piṅgala hãm hại, khi vua ấy chết, mọi người cảm thấy hân hoan. Chẳng lẽ vị vua có mắt vàng nâu đã được ngươi yêu mến? Này người giữ cổng, tại sao ngươi lại khóc lóc?”

Chính vua Pin-ga-la,
Làm hại khắp mọi người,
Nay vua đã chết đi,
Ai cũng thấy thoải mái,
Phải chăng vua Hoàng nhãn
Ðã đưc ngươi thương yêu?
Khiến ngươi phải than khóc,
Hỡi người giữ cửa kia?

336. Na me piyo āsi akaṇhanetto bhāyāmi paccāgamanāya tassa, ito gato hiṃseyya maccurājaṃ so hiṃsito āneyya puna idha. 

336. Vị vua có mắt vàng nâu đã không được tôi yêu mến. Tôi sợ hãi việc quay lại của vua ấy. Từ đây ra đi, vua có thể hãm hại Thần Chết, Thần chết, bị hãm hại, có thể đưa vua về lại nơi này.”

Tôi không hề thương mến
Vua có con mắt vàng,
Tôi chỉ sợ một việc
Vua sẽ trở lại đây.
Vì làm hại thần Chết,
Nên từ đây vua đi,
Thần Chết bị vua hại,
Lại đưa vua trở về.

337. Daḍḍho vāhasahassehi sitto ghaṭasatehi so, parikkhatā ca sā bhūmi mā bhāyi nāgamissatī ”ti.

10. Mahāpiṅgalajātakaṃ. 

337. “Vua ấy đã bị đốt cháy bởi một ngàn xe (củi), đã bị rưới ướt bởi một trăm chậu nước, và khu đất ấy đã bị đào vòng quanh; chớ sợ hãi, vua sẽ không trở lại.”



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada