Người đáng bảo vệ con
Khỏi buồn phiền đau khổ,
Người ấy là cha con,
Lại ác ý trong rừng,
Nay con khóc với ai,
Giữa núi rừng thanh vắng,
Người đáng bảo vệ con,
Lại muốn dùng sức mạnh?
291. Saṭhassa sāṭheyyamidaṃ sucintitaṃ paccoḍḍitaṃ patikūṭassa kūṭaṃ, phālañce adeyyuṃ mūsikā kasmā kumāraṃ kulalā no hareyyuṃ.
291. “Sự lường gạt đáp trả kẻ lường gạt, điều này khéo được suy nghĩ, sự xảo trá đáp trả kẻ xảo trá là cách được lập ra để đối trị. Nếu các con chuột có thể ăn được lưỡi cày, vì sao các con diều hâu lại không thể tha đi đứa bé trai?
Man trá trị man trá,
Ðây thật suy tính hay,
Dùng lừa đảo phản công
Ðối trị kẻ lừa đảo
Nếu cho rằng loài chuột
Có thể ăn lưỡi cày,
Thì sao các diều hâu
Lại không mang đứa trẻ?
292. Kūṭassa hi santi kūṭakūṭā bhavati cāpi nikatino nikatyā, dehi puttanaṭṭha phālanaṭṭhassa phālaṃ mā te puttamahāsi phālanaṭṭho ”ti.
8. Kūṭavāṇijajātakaṃ.
292. Bởi vì đối với sự xảo trá, có những sự xảo trá dành cho xảo trá, và cũng có sự lừa đảo đáp trả sự lừa đảo. Này kẻ bị mất con, ngươi hãy trả lưỡi cày cho người bị mất lưỡi cày, chớ để người bị mất lưỡi cày mang đi đứa con trai của ngươi.”
Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada