[84] - Thế nào là hạng người không hy vọng (nirāso)?
Ở đây có hạng người ác giới, ác tánh, sở hành bất tịnh đáng nghi ngờ, hành vi che đậy, phi sa môn tự nhận là sa môn, phi phạm hạnh tự nhận là phạm hạnh, nội tâm hôi hám, dục nhiễm, tánh tình bẩn thiểu. Người ấy nghe đồn rằng: "có Tỳ - khưu tên vậy do đoạn tận các lậu-hoặc, ngay trong hiện tại tự mình với thắng trí, đã chứng đã đắc và an trú vô lậu tâm giải thoát tuệ giải thoát". Ðối với người ấy không nghĩ được như vậy: "Khi nào thì ta mới do đoạn tận các lậu hoặc, ngay trong hiện tại tự mình với thắng trí chứng đắc và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát". Ðây gọi là hạng người không hy vọng.
- Thế nào là hạng người có hy vọng (āsaṃso)?
Ở đây có hạng người giới hạnh, thiện tánh, người ấy nghe đồn rằng: "Có vị Tỳ kheo tên vậy do đoạn trừ các lậu hoặc nghe trong hiện tại tự mình với thắng trí đã chứng đắc là an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Ðối với người ấy sẽ nghĩ như vậy: khi nào đây ta cũng sẽ do đoạn trừ các lậu hoặc, ngay trong hiện tại tự mình với thắng trí, chứng đắc và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Ðây gọi là hạng người có hy vọng.
- Thế nào là hạng người hết hy vọng (vigatāso)?
Ở đây có hạng người do đoạn trừ các lậu hoặc, ngay trong hiện tại tự mình với thắng trí, đã chứng đắc và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát; người ấy dù nghe đồn rằng: "Có vị Tỳ - khưu tên vậy do đoạn trừ các lậu hoặc, ngay trong hiện tại tự mình với thắng trí đã chứng đắc và an trú tâm giải thoát, tuệ giải thoát" ở người ấy không nghĩ như sau: "Khi nào đây ta cũng sẽ do đoạn trừ các lậu hoặc, ngay trong hiện tại tự mình với thắng trí chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát", vì cớ sao? bởi vì sự hy vọng giải thoát trước khi chưa giải thoát, hy vọng ấy đã kết thúc. Ðây gọi là hạng hết hy vọng.
[85] - Trong ấy thế nào là ba hạng người dụ như bệnh nhân (gilānupamā)?
Có ba hạng bệnh nhân là:
Ở đây có một hạng bệnh nhân dù được thực phẩm thích hợp hay không được thực phẩm thích hợp; dù được dược phẩm thích hợp hay không được dược phẩm thích hợp: dù được người khán hộ (upaṭṭhākaṃ, người chăm nom, săn sóc bệnh nhân) thích hợp hay không được người khán hộ thích hợp thì cũng không khỏi bệnh ấy.
Ở đây lại có một hạng bệnh nhân dù được thực phẩm thích hợp hay không được thực phẩm thích hợp, dù được dược phẩm thích hợp hay không được dược phẩm thích hợp, dù được người khán-hộ thích hợp hay không được người khán-hộ thích hợp thì cũng dứt khỏi bệnh này.
Ở đây lại có một hạng bệnh nhân khi được thực phẩm thích hợp, chẳng phải không được khi được dược phẩm thích hợp, chẳng phải không được, khi được người khán - hộ thích hợp, chảng phải không được thì sẽ dứt khỏi bệnh ấy.
Chính ở điểm mà có hạng bệnh nhân sẽ dứt khỏi bệnh ấy khi được thực phẩm thích hợp, không phải không được khi được dược phẩm thích hợp, không phải không được khi được người khán-hộ thích hợp, không phải không được, vì dựa vào hạng bệnh nhân này mà đức Thế-Tôn mới chuẩn cho thực phẩm người bệnh, chuẩn cho được phẩm người bệnh chuẩn cho người khán hộ bệnh nhân. Lại nữa, dựa theo hạng bệnh nhân này mà các bệnh nhân khác cần được chăm sóc.
[86] - Có ba hạng người dụ như bệnh nhân có mặt trong đời xuất hiện như vầy:
- Thế nào là ba hạng?
Ở đây có hạng người dù được gặp đức Như-Lai hay không được gặp đức Như-Lai, dù được nghe pháp luật Như-Lai thuyết hay không được nghe pháp luật Như-lai thuyết, cũng không bước vào qui luật chánh phần các thiện pháp (niyāmaṃ kusalesu dhammesu sammattaṃ).
Lại nữa, ở đây có hạng người dù được gặp đức Như-lai hay không được gặp đức Như-lai, dù được nghe pháp luật Như-lai thuyết, hay không được nghe pháp luật Như-lai thuyết thì vẫn bước vào qui luật chánh phần các thiện pháp.
Lai nữa, ở đây có hạng người khi gặp đức Như-lai, không phải không được, khi được nghe pháp luật Như-lai thuyết không phải không được; thì mới bước vào qui luật chánh phần các thiện pháp.
Chính ở điểm mà có hạng người khi được gặp đức Như-lai, không phải không được, khi được nghe pháp luật Như-lai thuyết, không phải không được, thì mới bước vào qui luật chánh phầncác thiện pháp; dựa theo hạng người này nên Ðức Thế-Tôn mới chuẩn cho việc thuyết pháp: và lại nữa dựa theo hạng người này mà giáo pháp cần được thuyết giảng.
Ðây là ba hạng người dụ như bệnh nhân, có mặt, xuất hiện trong đời.
[87] - Thế nào là hạng người thân chứng (kāyasakkhī)?
Ở đây có người thân chứng đắc an trú trong bát giải thoát; người ấy với trí tỏ ngộ, chỉ có một số lậu hoặc được tận diệt thôi. Ðây gọi là hạng người thân chứng.
- Thế nào là hạng người kiến đắc (diṭṭhippatto)?
Ở đây có người hiểu như thật rằng "đây là khổ" hiểu như thật rằng "đây là khổ tập", hiểu như thật rằng "đây là khổ diệt", hiểu như thật rằng "đây là khổ diệt hành lộ", các Như lai tuyên thuyết đã được người ấy nhận định, thẩm sát bằng trí; nhưng người ấy khi với trí tỏ ngộ chỉ có một số lậu hoặc được tận diệt thôi. Ðây gọi là hạng người kiến đắc.
- Thế nào là hạng người tín giải (saddhāvimutto)?
Ở đây có người hiểu như thật rằng "đây là khổ"... (trùng)... các pháp Như-lai tuyên thuyết, đã được người ấy nhận định, thẩm sát bằng trí, nhưng người ấy khi với trí tỏ ngộ chỉ có một số lậu hoặc được tận diệt thôi tuy nhiên không phải như hạng người kiến đắc (diṭṭhippatto). Ðây gọi là hạng người tín giải thoát.
[88] - Thế nào là hạng người phẫn ngữ (gūthabhānī)?
Ở đây có người hay nói dối, khi đến chỗ nhóm họp, hoặc đến tại hội chúng, hoặc đến giữa quyến thuộc, hoặc đến giữa quan quyền, hoặc đến giữa hoàng gia, bị buộc hỏi cung rằng "hãy lại đậy gã kia, mi biết gì hãy nói ra điều ấy!". Hắn không biết lại nói là "tôi biết" hoặc biết lại nói "tôi không biết", hoặc không thấy lại nói "tôi thấy" hoặc thấy lại nói "tôi không thấy" như thế vì nhân tự nó hay vì nhân người khác hay vì nhân chút ít lợi lộc mà thành ra nói dối. Ðây gọi là hạng người phẫn ngữ.
Tế nào là hạng người hoa ngữ (pupphabhāṇī)?
Ở đây có người bỏ lời nói dối, tránh lời nói dối, khi đến chỗ nhóm họp, hoặc đến tại hội chúng, hoặc đến giữa quyến thuộc, hoặc đến giữa quan quyền, hoặc đến giữa hoàng gia, bị buộc hỏi cung rằng: "hãy lại đây gã kia mi biết gì hãy nói điều ấy!" hắn không biết thì nói "tôi không biết!" hắn biết thì nói "tôi biết", hắn không thấy thì nói "tôi không thấy", hắn thấy thì nói "tôi thấy" như thế không thành nói dối vì nhân tự mình hay nhân người khác hay nhân chút ít lợi lộc. Ðây gọi là hạng người hoa ngữ.
- Thế nào là hạng người mật ngữ (Madhubhānī)?
Ở đây có hạng người phát ngôn như là lời nói không thô lỗ, êm tai, dễ thương, rót vào tim, nhã nhặn, được quần chúng ưa thích, được quần chúng vừa lòng. Ðây là hạng người mật ngữ.
[89] - Thế nào là hạng người tâm như ung nhọt (arukūpamacitto)?
Ở đây có hạng người phẫn nộ, nhiều hiềm hận; khi bị nói đến chút ít cũng tức tối, phẫn nộ, sân hận, sừng sộ, biểu lộ sự phẫn nộ, sân hận và bực tức, ví như mụn nhọt làm mủ khi miếng cây hay miếng sành đánh trúng liền chảy mủ nhiều hơn; cũng thế, ở đây có người phẫn nộ, nhiều hiềm hận; khi bị nói đến chút ít cũng bị tức tối, phẫn nộ, sân hận, sừng sộ, biểu lộ sự phẫn nộ, sân hận và bực tức. Ðây gọi là hạng người tâm như ung nhọt.
- Thế nào là hạng người tâm như điển chớp (vijjūpamacitto)?
Ở đây có hạng người hiểu như thật rằng "Ðây là khổ", hiểu như thật rằng "Ðây là khổ tập", hiểu như thật rằng "đây là khổ diệt", hiểu như thật rằng "đây là khổ diệt hành lộ"; ví dụ như một người có mắt trong đêm tối mù mịt lúc rực lên ánh chớp thì có thể thấy các cảnh vật; cũng thế ở đây có hạng người hiểu như thật rằng "đây là khổ", hiểu như thật rằng "đây là khổ tập", hiểu như thật rằng "đây là khổ diệt", hiểu như thật rằng "đây là khổ diệt hành lộ". Ðây gọi là hạng người tâm như điển chớp [tức là chỉ cho bậc Tu-đà-hườn đạo, Tu- đà-hàm đạo và A-na-hàm đạo. Vào sát na tâm đạo đang sanh vị ấy thấy Niết bàn, nhưng đời sống sau đó vẫn còn chút ít phiền não.]
- Thế nào là hạng người tâm như lôi sấm (vajirūpamacitto)?
Ở đây có hạng người do đoạn trừ các lậu hoặc, ngay, ngay trong hiện tại đã tự mình với thắng trí chứng đắc và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát; cũng như khi sét đánh không có thứ gì không bị bể dù là ngọc ma-ni hay tảng đá; cũng thế ở đây có hạng người do đoạn trừ, các lậu hoặc, ngay trong hiện tại tự mình với thắng trí đã chứng đắc và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát. Ðây gọi là hạng người tâm như lôi sấm [chỉ đạo cho bậc A-la-hán khi tâm tứ đạo sanh khởi liền đoạn, tận hoàn toàn, các phiền não không dư sót]
[90] - Thế nào là hạng người mù mắt (andho)?
Ở đây đối với một hạng người không có con mắt, con mắt mà nhờ đó đạt được tài sản chưa đạt được hay gia tăng tài sản đã đạt được; không có con mắt, con mắt mà nhờ đó biết được pháp thiện và pháp bật thiện, biết được pháp tội lỗi và vô tội lỗi, biết được pháp hạ liệt và cao thượng, biết được pháp thành phần đen và thành phần trắng. Ðây gọi là hạng người mù mắt.
- Thế nào là hạng người một mắt (ekacakkhu)?
Ở đây với một hạng người có con mắt, con mắt mà nhờ đó đạt được tài sản chưa đạt được hay gia tăng tài sản đã đạt được; nhưng không có con mắt, con mắt mà nhờ đó, biết được pháp thiện và pháp bật thiện, biệt được pháp tội lỗi và vô tội lỗi, biết được pháp hạ liệt và cao thượng, biết được pháp thành phần đen và thành phần trắng. Ðây gọi là hạng người một mắt.
- Thế nào là hạng người hai mắt (dvicakkhu)?
Ở đây với một hạng người có con mắt, con mắt mà nhờ đó đạt được tài sảnchưa đạt đưôc hay gia tăng tài sản đã đạt được? Lại cũng có con mắt, con mắt mà nhờ đó biết được pháp thiện và pháp bất thiện, biết được pháp tội lỗi và vô tội lỗi, biết được pháp hạ liệt và cao thượng, biết được pháp thành phần đen và thành phần trắng. Ðây gọi là hạng người hai mắt.
[91] - Thế nào là hạng người trí tuệ lật úp (avakujjapañño)?
Ở đây có hạng người đi đến chùa, thường xuyên gần gũi các Vị Tỳ-Khưu để nghe pháp; các vị Tỳ-khưu thuyết pháp cho người ấy, sơ thiện, trung thiện, hậu thiện có nghĩa văn, trình bày viên mản thanh tịnh. Họ ngồi tại chỗ ngồi ấy không tác ý đến đoạn đầu, không tác ý đến đoạn giữa, không tác ý đến đoan cuối của lời pháp ấy, khi đứng dậy khỏi chỗ ngồi ấy cũng khôngtác ý đến đoạn đầu, không tác ý đến đoạn giữa, không tác ý đến đoạn cuối của lời pháp ấy; ví như cái nồi úp xuống, nước đổ trên nồi ấy chảy tràn ra chứ không đọng chứa lại, cũng thế ở đây có hạng người đi đến chùa, thường xuyên gần gũi các vị Tỳ-khưu để nghe pháp, các vị Tỳ-khưu thuyết pháp cho người ấy, sơ thiện, trung thiện, hậu thiện có nghĩa, có văn trình bày pham hạnh viên mản thanh tịnh. Họ ngồi tại chỗ ngồi ấy không tác ý đến đoạn đầu, không tác ý đến đoạn giữa, không tác ý đến đoạn cuối của lời pháp ấy, khi đứng dậy khỏi chỗ ngồi ấy cũng không tác ý đến đoạn đầu, không tác ý đến đoạn giữa, không tác ý đến đoạn cuối của lời pháp ấy. Ðây gọi là hạng người trí tuệ lật úp.
- Thế nào là hạng người trí tuệ bắp vế (ucchaṅgapañño)?
Ở đây có người đi đến chùa, thường xuyên gần gũi các vị Tỳ-khưu để nghe pháp, các vị Tỳ-khưu thuyết pháp cho người ấy, sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, có nghĩa văn, trình bày phạm hạnh viên mản thanh tịnh; Họ ngồi tại chỗ ngồi ấy cũng tác ý đến đoạn đầu, tác ý đến đoạn giữa, tác ý đến đoạn cuối của lời pháp ấy, nhưng khi đứng dậy khỏi chỗ ngồi ấy thì không còn tác ý đến đoạn đầu, không còn tác ý đến đoạn giữa, không còn tác ý đến đoạn cuối của lời pháp ấy nữa; ví như có người trên bắp vế (đang ngồi) đươc chất đầy các thức ăn sai khác như hạt mè, hạt thóc, kẹo viên (modakā) quả táo (badāra), người ấy khi đứng dậy khỏi chỗ ngồi đó vì sơ ý (satisammosanā mutthassatitāya, thất niệm, quên, không chú ý, sơ ý) nên làm đổ vải hết; cũng thế, ở đây có người đi đến chùa, thường xuyên gần gũi các vị tỳ - khưu để nghe pháp, các vị Tỳ-khưu thuyết pháp cho người ấy, sơ thiện, hậu thiện, có nghĩa có văn, trình bày phạm hạnh viên mản thanh tịnh; Họ ngồi tại chỗ ngồi ấy cũng tác ý đến đoạn đầu, tác ý đến đoạn giữa, tác ý đến đoạn cuối của lời pháp ấy, nhưng khi đứng dậy khỏi chỗ ngồi ấy thì không còn tác ý đến đoạn đầu, không còn tác ý đến đoạn giữa không còn tác ý đến đoạn cuối của lời pháp ấy nữa. Ðây gọi là người trí tuệ bắp vế.
- Thế nào là hạng người trí tuệ rộng lớn (puthupañño)?
Ở đây có hạng người đi đến chùa, thường xuyên gần gũi các vị tỳ-khưu để nghe pháp; các vị tỳ-khưu thuyết pháp cho người ấy, sơ thiện, trung thiện hậu thiện có nghĩa có văn, trình bày phạm hạnh viên mãn thanh tịnh; họ ngồi tại chỗ ngồi ấy cũng tác ý đến đoạn đầu tác ý đến đoạn giữa, tác ý đến đoạn cuối của lời pháp ấy; đứng dậy khỏi chỗ ngồi ấy cũng tác ý đến đoạn đầu, tác ý đến đoạn giữa, tác ý đến đoạn cuối của lời pháp ấy; ví như một cái bình lật ngữa, nước đổ vào bình ấy được chứa đọng lại không có chạy tràn ra, cũng thế ở đây có hạng người đi đến chùa, thường xuyên gần gũi các vị Tỳ-khưu để nghe pháp; các vị Tỳ-khưu thuyết pháp cho người ấy, sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, có nghĩa có văn, trình bày phạm hạnh viên mãn thanh tịnh; Họ ngồi tại chỗ ấy cũng tác ý đến đoạn đầu, tác ý đến đoạn giữa,tác ý đến đoạn cuối của lời pháp ấy dù đứng dậy khỏi chỗ ngồi ấy cũng tác ý đến đoạn đầu, tác ý đến đoạn giữa tác ý đến đoạn cuối của lời pháp ấy. Ðây gọi là hạng người trí tuệ rộng lớn.
[92] - Thế nào là hạng người chưa ly tham các dục và các hữu (kāmesu ca bhavesu ca avītarāgo)?
Bậc Dự-lưu và bậc Nhất-lai. Ðây gọi là hạng người chưa ly tham các dục và các hữu.
- Thế nào là hạng người ly tham-dục chưa ly tham-hữu (kāmesu vītarāgo bhavesu avītarāgo)?
Bậc bất-lai. Ðây gọi là hạng người ly tham dục chưa ly tham hữu.
- Thế nào là hạng người ly tham các dục và các hữu (kāmesu ca bhavesu ca vītarāgo)?
Bậc A-la-hán. Ðây gọi là hạng người ly tham các dục và các hữu.
[93] - Thế nào là hạng người dụ như chữ viết trên đá (pāsānalekhū pamo puggalo)?
Ở đây có hạng người thường hay phẫn nộ, mà sự phẫn nộ ấy ngấm ngầm (anuseti) lâu dài; ví như chữ viết trên đá được tồn tại lâu, không dễ chóng bị tẩy xóa bằng gió hay nước; cũng thế ở đây có người thường hay phẫn nộ mà sự phẫn nộ ấy ngấm ngầm lâu dài. Ðây gọi là hạng người dụ như chữ viết trên đá.
- Thế nào là hạng người dụ như chữ viết trên đất (pathavīlekhūpamo puggalo)?
Ở đây có hạng người hay phẫn nộ, nhưng sự phẫn nộ ấy không ngấm ngầm lâu dài; ví như chữ viết trên đất, không tồn tại lâu, mau chóng bị gió hay nước tẩy xóa, cũng thế ở đây có người hay phẫn nộ, nhưng sự phẫn nộ ấy không ngấm ngầm lâu dài. Ðây gọi là hạng người dụ như chữ viết trên đất.
- Thế nào là hạng người dụ như chữ viết trên nước (udakalekhūpamo)?
Ở đây có hạng người dù bị nói một cách gắt gao, bị nói một cách ác độc, nói một cách bất nhả (amanāpena) vẫn dễ dãi (saṃsandati), vẫn hài hòa (sandhīyati) vẫn vui vẻ; ví như chữ viết trên nước mau chóng bị xóa tan, không tồn tại lâu, cũng thế có người dù bị nói một cách gắt gao, bị nói một cách độc ác, bị nói một cách bất nhả, vẫn dễ dãi, vẫn vui vẻ, vẫn hài hòa. Ðây gọi là hạng người dụ như chữ viết trên nước.
[94] - Trong ấy thế nào ba hạng người dụ như vải bố (potthakūmamā puggalā).
Ba thứ vải bố là:
Có thứ vải bố mới tinh nhưng xấu sắc, thô xúc (dukkasamphasso) (1) và ít giá trị.
Có thứ vải bố loại trung cũng xấu sắc, thô xúc và ít giá trị.
Có thứ vải bố cũ kỹ và xấu sắc, thô xúc và ít giá trị. Người ta dùng vải bố cũ kỹ làm giẻ chùi nồi (ukkhaliparimajjanam) hay đem ném bỏ nó vào đống rác.
[95] - Cũng vậy có ba hạng người nầy dụ như vải bố xuất hiện trong hàng Tỳ-khưu.
Ba hạng người như thế nào?
Một vị tân Tỳ-khưu nếu là ác giới, ác tánh thì đây là sự xấu sắc của vị ấy; ví như tấm vải bố kia xấu sắc, hạng người này ví dụ như thế. Những ai giao du, giao thiệp, hầu cận, xu hướng tri kiến với vị ấy, điều đó khiến họ bất hạnh đau khổ lâu dài, đây là sự thô xúc của vị ấy, ví như tấm vải bố kia có sự thô xúc, hạng người nầy ví dụ như thế, lại nữa, vị ấy thọ nhận của những ai về y phục, vật thưc, sàng tọa, được phẩm trị bệnh thì khiến cho họ không được quả báo lớn, không được lợi ích lớn, đây là sự ít giá trị của vị ấy; ví như tấm vải bố kia ít giá trị, hạng người này ví dụ như thế.
Một vị trung Tỳ-khưu nếu là... (trùng)...
Một vị trưởng lão Tỳ-khưu nếu là ác giới, ác tánh thì đây là sự xấu sắc của vị ấy; ví như tấm vải bố kia xấu sắc, hạng người này ví dụ như thế. Những ai giao du, giao thiệp, hầu cận, xu hướng tri kiến với vị ấy, điều đó khiến họ bất hạnh đau khổ lâu dài, thì đây là sự thô xúc của vị ấy, ví như tấm vải bố kia có sự thô xúc, hạng người này ví dụ như thế. Lại nửa, vị ấy thọ nhận của những ai về y phục, vật thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh, thì khiến cho họ không được quả báo lớn, không được lợi ích lớn, đây là sự ít giá trị của vị ấy, ví như tấm vải bố kia ít giá trị, hạng người này ví dụ như thế. Nếu một vị trưởng lão Tỳ - khưu như vậy đó thảo luận giữa tăng chúng ắt chư Tỳ-khưu quở vị ấy như sau: "có ích gì lời nói ngu si, dốt nát của ông chứ! ông tưởng rằng cần ông nói lắm sao?" vị ấy liền phẫn nộ bất bình và thốt ra lời nói mà vì lời nói như thế nên tăng chúng đuổi đi như ném tấm vải bố ấy vào đống rác.
Ðây là ba hạng người dụ như vải bố, có mặt xuất hiện trong hàng Tỳ-khưu.
[96] - Trong ấy thế nào là ba hạng người dụ như lụa kàsì (kāsikavatthūpamā puggalā)?
Có ba thứ lụa kàsì là :
Có thứ lụa kāsī mới tinh, màu tốt, nhuyển xúc (sukhasamphassa, xúc dễ chịu, nghĩa là vải mịn mát, mặc vào thấy dễ chịu) và đắc giá.
Có thứ lụa kāsī hạng trung, màu tốt, nhuyển xúc và đắc giá.
Có thứ lụa kāsī cũ kỷ nhưng còn màu tốt, nhuyển xúc và đắc giá. Người ta dùng lụa kāsī cũ kỹ làm vải gói châu báu hay đem cất nó vào tủ hương thơm.
[97] - Cũng vậy, có ba hạng người dụ như lụa kāsī, xuất hiện trong hàng Tỳ - khưu.
Ba hạng người như thế nào?
Một vị tân Tỳ-khưu nếu là bậc giới hạnh, thiện tánh, đây là màu tốt của vị ấy, ví như lụa kāsīcó màu tốt hạng người này ví dụ như thế. Những ai giao du, giao thiệp hầu cận xu hướng tri kiến với vị ấy, điều đó khiến họ lợi ích an vui lâu dài, đây là sự nhuyễn xúc của vị ấy, ví như tấm vải lụa kāsī kia có sự nhuyển xúc, hạng người này ví dụ như thế. Lại nửa, vị ấy thọ nhận của những ai về y phục, vât thực, sàng tọa và dược phẩm trị bệnh thì khiến cho họ được quả báo lớn, được lợi ích lớn, đây là sự đắc giá của vị ấy, ví như tấm vải kāsī kia đắc giá, hạng người này ví dụ như thế.
Một vị trung Tỳ-khưu nếu là ... (trung)...
Một vị trưởng lão Tỳ-khưu nếu là bậc giới hạnh, thiện tánh, đây là màu sắc tốt của vị ấy, ví như lụa kāsī có màu tốt, hạng người này ví dụ như thế. Những ai giao du, giao thiệp, hầu cận, xu hướng tri kiến với vị ấy, điều đó khiến họ lợi ích an vui lâu dài, đây là sự nhuyển xúc của vị ấy, ví như tấm vải lụa kāsī kia có sự nhuyển xúc, hạng người này ví dụ như thế. Lại nửa, vị ấy thọ nhận của những ai về y phục, vật thực, sàng tọa và dược phẩm trị bệnh thì khiến cho họ được quả báo lớn, được lợi ích lớn, đây là sự đắc giá của vị ấy, ví như tấm lụa kāsī kia đắc giá, hạng người này ví dụ như thế. Nếu một vị trưởng lão Tỳ-khưu như vậy đó thảo luận giữa tăng chúng; ắt như Tỳ-khưu nói về vị ấy như sau: "Chư Tôn giả, hãy im lặng! Vị trưởng lão Tỳ-khưu đang nói pháp và luật". Lời nói của vị ấy trở thành trân trọng (ādheyyam gacchati) như lụa kàsì kia cất trong tủ hương thơm vậy.
Ðây là ba hạng người dụ như lụa kāsī, có mặt xuất hiện trong hàng Tỳ-khưu.
[98] - Thế nào là hạng người dễ ước lượng (suppameyyo)?
Ở đây có hạng người tháo động, kiêu căng, giao động, lắm mồm (mukharo), ngôn từ bừa bãi (vikinnavāco), thất niệm, không tỉnh giác, không định tỉnh, tâm lệch lạc (vibbhantacitto), căn quyền thả lỏng (pākatindriyo). Ðây gọi là hạng người dễ ước lượng.
- Thế nào là hạng người khó ước lượng (duppameyyo)?
Ở đây có hạng người không tháo động, không kiêu căng, không giao động, không lắm mồm, ngôn từ không bừa bãi trú niệm, tỉnh giác, định tỉnh, nhất hướng tâm, căn quyền thu thúc. Ðây là hạng người khó ước lượng.
- Thế nào là hạng người không thể ước lượng (appameyyo)?
Ở đây có hạng người do đoạn trừ các lậu hoặc, ngay trong hiện tại tự mình với thắng trí chứng ngộ chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát; tuệ giải thoát. Ðây là hạng người không thể ước lượng.
[99] - Thế nào là hạng người không đáng giao du, không đáng giao thiệp, không đáng thân cận (sevitabbo na bhajitabbo na payirupāsitabbo)?
Ở đây có hạng người hạ liệt (hīno, tức là hạng người kém hơn ta về giới định tuệ) về giới, về định, về tuệ; hạng người như vậy không đáng giao du, không đáng giao thiệp, không đáng kết hợp, trừ phi là xót thương, tiếp độ (aññatra anuddayā annatra anukampā) .
- Thế nào là hạng người đáng giao du, đáng giao thiệp, đáng thân cận (sevitabbo bhajitabbo payirupāsitabbo)?
Ở đây có hạng người đồng đẳng (sadiso, tức là hạng người ngang bằng với ta về giới định tuệ) về giới, về định, về tuệ; hạng người như vậy đáng giao du, đáng giao thiệp, đáng thân cận, vì cớ sao? vì gần các bậc thanh tịnh có giới thì lời nói về giới sẽ có đến ta, và lời nói ấy sẽ khiến ta an vui, lời nói sẽ khiến ta tiến hóa (pavattinī); gần các bậc thanh tịnh có định thì lời nói về định sẽ có đến ta, và lời nói ấy khiến ta an vui, lời nói ấy sẽ khiến ta tiến hóa; gần các bậc thanh tịnh có tuệ thì lời nói về tuệ sẽ có đến ta, và lời nói ấy sẽ khiến ta an vui, lời nói ấy sẽ khiến ta tiến hóa; do đó hạng người như vậy đáng giao du, đáng giao thiệp, đáng thân cận.
- Thế nào là hạng người cần giao du, cần giao thiệp, cần thân cận bằng cách cúng dường kính trọng (sakkatvā garukatvā sevitabbo bhajitabbo payirupā sitabbo)?
Ở đây có hạng người thắng vượt (adhiko, tức là hạng người lớn trội hơn ta về giới định tuệ) về giới, về định, về tuệ, hạng người như vậy, sau khi cúng dường kính lễ cần phải giao du, cần phải giao thiệp, cần phải thân cận. Vì cớ sao? vì rằng ta sẽ bổ túc giới uẩn chưa được đầy đủ hay là ta sẽ học hiểu thêm điểm này, điểm kia về giới uẩn đã được hoàn bị; ta sẽ bổ túc định uẩn chưa được đầy đủ hay là ta sẽ học hiểu thêm điểm này điểm kia về định uẩn đã được hoàn bị; ta sẽ bổ túc tuệ uẩn chưa đầy đủ hay là ta sẽ học hiểu thêm điểm này điểm kia về tuệ uẩn đã được hoàn bị; do đó hạng người như vậy sau khi cúng dường kính lễ, cấn phải giao du, cần phải giao thiệp, cần phải thân cận.
[100] - Thế nào là hạng người đáng tởm (jigucchitabbo), không đáng giao du, không đáng giao thiệp, không đáng thân cận?
Ở đây có hạng người ác giới, ác tánh, sở hành bất tịnh đáng nghi ngờ, hành vi che đậy, phi sa-môn tự nhận là Sa-môn, phi phạm hạnh tự nhận là phạm-hạnh, nội tâm hôi hám, dục nhiểm, tánh tình bẩn thỉu; Hạng người như vậy là đáng tởm, không đáng giao du, không đáng giao thiệp, không đáng thân cận.Vì cớ sao? vì dù rằng không bị xu hướng tri kiến của hạng người như vậy một chút nào, nhưng rồi tiếng tăm xấu đồn đãi về người ấy rằng hắn ta có bạn ác, có đồng bọn ác, có thân hữu ác, cũng ví như con rắn đi trong đống phẩn dù nó không cắn ai nhưng phẩn trét thoa lên nó; cũng thế, dù rằng không bị xu hướng tri kiến của hạng người như vậy một chút nào, nhưng rồi tiếng tăm xấu đồn đãi về người ấy rằng hắn ta có bạn ác, có đồng bọn ác, có thân hữu ác. Do đó hạng người như vậy là đáng tởm không đáng giao du, không đáng giao thiệp, không đáng thân cận.
- Thế nào là hạng người cần lảnh đạm (ajjhupekkhitabbo), không đáng giao du, không đáng giao thiệp, không đáng thân cận?
Ở đây có hạng người phẫn nộ, nhiều hiềm hận, khi bị nói đến chút ít cũng tức tối, phẫn nộ, sân hận, sừng sộ, biểu lộ sự phẩn nộ sân hận và bực tức; cũng ví như mụt nhọt làm mủ khi bị miếng cây hay miếng sành đánh trúng liền chảy mủ nhiều hơn, cũng thế ở đây có hạng người phẫn nộ, nhiều hiềm hận, khi bị nói đến chút ít cũng tức tối, phẫn nộ, sân hận, sừng sộ, biểu lộ sự phẫn nộ, sân hận và bực tức, hay cũng ví như que củi than tinduka khi bị miếng cây hay miếng sành đánh phải thì nổ lách tách lách tách [ciccitāyati ciṭicitāyati, dùng các từ thượng thanh trong Pāḷi, ở đây tạm chuyển dịch - ND] nhiều hơn, cũng thế ở đây có hạng người phẫn nộ, nhiều hiềm hận, sừng sộ, biểu lộ sự phẫn nộ, sân hận và bực tức; hay cũng ví như một đống phẫn khi bị miếng cây hay miếng xành ném trúng thì phát mùi thối nhiều hơn, cũng thế ở đây có hạng người phẫn nộ, nhiều hiềm hận, khi bị nói đến chút ít cũng tức tối, phẫn nộ, sân hận, sừng sộ, biểu nộ sự phẫn nộ, sân hận là bực tức. Hạng người như vậy là cần lảnh đạm, không đáng giao du, không đáng giao thiệp, không đáng thân cận. Vì cớ sao? Vì họ có thể mắng chửi ta, có thể thóa mạ ta, có thể làm bất lợi cho ta. Do đó hạng người như vậy cần lảnh đạm, không nên giao du, không nên giao thiệp, không nên thân cận.
- Thế nào là hạng người nên giao du, nên giao thiệp, nên thân cận?
Ở đây có hạng người giới hạnh, thiện tánh; hạng người như vậy nên giao du, nên giao thiệp, nên thân cận. Vì cớ sao? Vì dù rằng không được xu hướng tri kiến của người như vậy một chút nào, nhưng tiếng tốt đồn đãi về người ấy rằng ông ta có bạn tốt, có đồng minh tốt, có thân hữu tốt. Do đó hạng người như vậy nên giao du, nên giao thiệp, nên thân cận.
[101] - Thế nào là hạng người bổ túc giới, hạn chế định, hạn chế tuệ (sīlesu-paripūrīkārī samādhismiṃ mattasokārī paññāya mattasokārī)?
Hạng Dư lựu và hạng Nhất lai. Ðây gọi là hạng người bổ túc giới, hạn chế định, hạn chế tuệ.
- Thế nào là hạng người bổ túc giới, bổ túc định, hạn chế tuệ (sīlesu paripūrīkārī samā dhismiṃ paripūrīkārī paññāya mattasokārī)?
Hạng Bất lai. Ðây gọi là hạng nguời bổ túc giới, bổ túc định, hạn chế tuệ.
- Thế nào là hạng người bổ túc giới, bổ túc định, bổ túc tuệ (sīlesu paripūrīkārī samādhismiṃ paripūrīkārī paññāya paripūrīkārī)?
Bậc A-la-hán. Ðây gọi là hạng người bổ túc giới, bổ túc định, bổ túc tuệ.
[102] - Trong ấy thế nào là ba hạng đạo sư (sattāro)?
Ở đây có hạng đạo sư trình bày cách đoạn trừ dục (kāmānaṃpariññaṃ- Pug. A. giải thích: Pariññaṃ paññāpetī ti pahānaṃ samatikkamaṃ paññapeti) mà không trình bày cách đoạn trừ sắc, không trình bày cách đoạn trừ thọ.
Ở đây có hạng đạo sư trình bày cách đoạn trừ dục, và trình bày cách đoạn trừ sắc, nhưng không trình bày cách đoạn trừ thọ.
Ở đây có hạng đạo sư trình bày cách đoạn trừ dục, trình bày cách đoạn trừ sắc và trình bày cách đoạn trừ thọ.
Trong ba hạng ấy, hạng đạo sư mà trình bày cách đoạn trừ dục, không trình bày cách đoạn trừ sắc, không trình bày cách đoạn trừ thọ; do lẽ ấy, nên hiểu là hạng đạo sư đắc thiền sắc giới. Trong ba hạng ấy, hạmg đạo sư mà trình bày cách đoạn trừ dục, trình bày cách đoạn trừ sắc, không trình bày cách đoạn trừ thọ; do lẽ ấy nên hiểu là hạng đạo sư đắc thiền vô sắc. Trong ba hạng ấy, hạng đạo sư mà trình bày cách đoạn trừ dục, trình bày cách đoạn trừ sắc và trình bày cách đoạn trừ thọ; do lẽ ấy nên hiểu là bậc đạo-sư chánh-đẳng-giác (sammā-sambuddho). Ðây là ba hạng đạo sư.
[103] - Trong ấy thế nào là ba hang đạo sư (satthāro) khác nữa?
Ở đây có hạng đạo sư chủ trương bản ngã chơn hằng (saccato thetato) trong đời hiên tại và chủ trương bản ngã chơn hằng trong đời tương lai.
Ở đây có hạng đạo sư chủ trương bản ngã chơn hằng trong đời hiên tại, nhưng không chủ trương bán ngã trong đời tương lai.
Ở đây có hạng đạo sư không chủ trương bản ngã chơn hằng trong đời hiện tại, cũng không chủ trương bản ngã chơn hằng trong đời tương lai.
Trong ba hạng ấy, hạng đạo sư mà chủ trương bản ngã chơn hằng trong đời hiện tại và chủ trương bản ngã chơn hằng trong đời tương lai; do lẽ ấy nên hiểu là hạng đạo sư thường kiến luận (sassatavādo). Trong ba hạng ấy, hạng đạo sư mà chủ trương bản ngã chơn hằng trong đời hiện tại, nhưng không chủ trương bản ngã chơn hằng trong đời tương lai; do lẽ ấy nên biết đoạn kết luận (ucchedavādo). Trong ba hạng ấy, hạng đạo sư mà không chủ trương bản ngã chơn hằng trong đời hiện tại, cũng không chủ trương bản ngã chơn hằng trong đời tương lai; do lẽ ấy nên biết là hạng đạo sư chánh đẳng giác (sammā-sambuddho). Ðây là ba hạng đạo sư khác nữa.
DỨT XIỂN MINH PHẦN BA CHI.
Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada