[17] - Thế nào là hạng thời giải thoát (puggalo samayavimutto)?

Ở đây có hạng người an trú do thân đắc được tâm giải thoát lúc đúng thời đúng dịp; và khi dùmg trí tuệ quán thấy thì một số lậu hoặc được đoạn tận. Ðây gọi là hạng người thời giải thoát.

[18] - Thế nào là hạng người phi thời giải thoát (puggalo asamayavimutto)?

Ở đây có hạng người không được an trú do thân đắc được tâm giải thoát lúc đúng thời đúng dịp, nhưng khi dùng trí tuệ quán thấy thì một số lậu hoặc được đoạn tận. Ðây gọi là hạng người phi thời giải thoát.

Tất cả thánh nhơn đều là bậc phi thời giải thoát trong thánh giải - thoát.

[19] - Thế nào là hạng người di động pháp (puggalo kuppadhammo)?

Ở đây có hạng người đắc thiền sắc hoặc thiền vô sắc hay nhập thiền, nhưng người ấy chẳng phải đắc không vất vả, chẳng phải đắc không khó khăn, chẳng phải đắc không khổ cực, chẳng được nhập thiền xuất thiền ở đâu lúc nào bao lâu như ý muốn; sự kiện này có xảy ra là khi người ấy dễ duôi thì các thiền chứng đó có thể bị biến hoại. Ðây gọi là hạng người di-động pháp.

[20] - Thế nào là hạng người bất động pháp (puggalo akuppadhammo)?

Ở đây có hạng người đắc thiền sắc hay thiền vô sắc hoặc nhập thiền, người ấy đắc không vất vả, đắc không khó khăn, đắc không khổ cực, nhập thiền xuất thiền ở đâu lúc nào bao lâu như ý muốn; không có sự kiện các thiên chứng đó của người ấy bị biến hoại do dễ duôi. Ðây gọi là hạng người bất động pháp.

Tất cả thánh nhơn đều là bậc bất động pháp trong thánh giải thoát.

[21] - Thế nào là hạng người suy-thối pháp (puggalo parihānadhammo)?

Ở đây có hạng người đắc thiền sắc hay thiền vô sắc hoặc nhập thiền, người ấy chẳng phải đắc không vất vả, chẳng phải đắc không khó khăn, chẳng phải đắc không khổ cực, chẳng được nhập thiền xuất thiền ở đâu lúc nào bao lâu như ý muốn; sự kiện này có xảy ra là người ấy có thể thối hóa bởi các thiền ấy khi đã dễ duôi đây gọi là hạng người suy-thối pháp.

[22] - Thế nào là hạng người bất suy pháp (puggalo aparihānadhammo)?

Ở đây có hạng người đắc thiền sắc hay thiền vô sắc hoặc nhập thiền, người ấy đắc không vất vả, đắc không khó khăn, đắc không khổ cực, nhập thiền xuất thiền ở đâu lúc nào bao lâu như ý muốn; không có sự kiện người ấy thối hóa bởi các thiền ấy khi đã dễ duôi. Ðây gọi là hạng người bất suy pháp.

Tất cả thánh nhơn đều là bậc bất suy pháp trong thánh giải thoát.

[23] - Thế nào là hạng người khả tư cố (puggalo cetanābhabbo)?

Ở đây có hạng người đắc thiền sắc hay thiền vô sắc hoặc nhập thiền, người ấy chẳng phải đắc không vất vả, chẳng phải đắc không khó khăn, chẳng phải đắc không khổ cực, chẳng được nhập thiền xuất thiền ở đâu lúc nào bao lâu như ý muốn; nếu chú tâm (anusanceteti) thì không bị hoại các thiền chứng đó, bằng như không chú tâm thì bị hoại các thiền chứng đó. Ðấy gọi là hạng ngưới khả tư cố [Cetanābhabbo, có khả năng thiền nhờ chú tâm]

[24] - Thế nào là hạng người khả bảo trì (anurakkhanābhabbo)?

Ở đây, có hạng người đắc thiền sắc hay vô sắc hoặc nhập thiền, người ấy chẳng phải đắc không vất vả, chẳng phải đắc không khó khăn, chẳng phải đắc không khổ cực, chẳng được nhập thiền xuất thiền ở đâu lúc nào bao lâu như ý muốn; nếu phòng hộ (anurakkhati) thì không bị hoại các thiền đó, bằng như không phòng hộ thì bị hoại các thiền đó. Ðây gọi là hạng người khả bảo trì [Anurakkhanābhabbo, có khả năng thiền nhờ phòng hộ]

[25] - Thế nào là hạng người phàm phu (puthujjano)?

Ðối với hạng người nào ba pháp triền chưa đoạn tận và cũng không thực hành để đoạn trừ các pháp ấy. Ðây gọi là hạng người phàm phu.

[26] - Thế nào là hạng người chuyển tộc (Gotrabhū)?

Sẽ bước vào tánh pháp thánh do nhờ pháp chuyển tiếp (samanantura) nào, thì người đang có phát ấy đây gọi là hạng người chuyển tộc.

[27] - Thế nào là hạng người úy kiêng (bhayūparato)?

Bảy hạng hữu học (sekkhā) và hạng phàm nhân có giới, là người úy kiêng (bhayūparato) [úy kiêng: là tránh điều ác do tâm sợ hãi.].

Bậc A-la-hán là hạng vô úy kiêng (abhayūparato) [vô úy kiêng: là bỏ điều ác không do sợ hãi, vị A-la-hán không làm ác do Pháp tánh đã thanh tịnh.]

[28] - Thế nào là hạng người vô khả đắc (abhabbāgamano)?

Những hạng người mà bị nghiệp chướng, bị phiền não chướng, bị quả chướng, không có niềm tin, không có hoài bão, thiếu trí, ngu đần, không có khả năng dự vào phần chánh cố-định trong các thiện pháp. Ðây gọi là những hạng người vô khả đắc.

[29] - Thế nào là hạng người khả đắc (bhabbāgamano)?

Những hạng người mà không bị nghiệp chướng, không bị phiền não chướng, không bị quả chướng, có đức tín, có hoài bão, có trí tuệ, không ngoan (anelā), có khả năng dự vào phần chánh cố định trong các thiện pháp. Ðây gọi là những hạng người khả đắc.

[30] - Thế nào lá hạng người định phần (niyato)?

Năm hạng người tạo nghịch vô gián [tội nghịch vô gián (anantarika) là giết cha, giết mẹ, giết A-la-hán, trích máu phật, chia rẻ Tăng.] và người tà kiến [ở đây chỉ cho thập vô kiến (naṭṭhikadiṭṭhi) không tin cha mẹ có ăn v.v...] là hạng cố định [sáu hạng ác nhận thấy nhất định sanh đọa sau khi chết], tám hạng thánh nhân [ariyapuggala, là bổn hạng thánh đạo và bốn hạng thánh quả] cũng là hạng cố định [các bậc thánh hữu học nhất định không còn sanh đọa thú, bậc A-la-hán nhất định không còn tái sanh]. Những hạng người khác là hạng vô định phần (aniyato).

[31] - Thế nào là hạng người tiến hành (patipannako)?

Bốn hạng thánh đạo, là hạng người tiến hành.

Bốn hạng thánh quả, là hạng người trụ quả (phaleṭṭhito).

[32] - Thế nào là hạn người đồng thời tận (Samasīsī)?

Ðối với hạng người nào lậu hoặc đoạn tận và mạng sống đoạn tận cùng lúc không trước không sau. Ðây là hạng người đồng thời tận.

[33] - Thế nào là hạng người trụ kiếp (thitakappī)?

Ðây là hạng người đang tiến hành để chứng đắc quả dự lưu, gặp lúc thiêu hủy kiếp (trái đất), cho đến khi nào người ấy chưa chứng quả dự lưu, thì khi ấy kiếp (trái đất) chưa thể bị thiêu cháy được. Ðây gọi là hạng người trụ kiếp.

Tất cả hạng người đạo (maggasamangī) cũng gọi là hạng trụ kiếp.

[34] - Thế nào là hạng người thánh (ariyo)?

Tám hạng thánh nhân là người thánh.

Những hạng người còn lại gọi là phi thánh (anāriya).

[35] - Thế nào là hạng người hữu học (sekho)?

Bốn người đạo và ba người quả (thấp), là hạng người hữu học.

Bậc A La Hán (quả) là người vô học (asekho) những hạng người còn lại là người phi hữu học phi vô học.

[36] - Thế nào là hạng người tam minh (tevijjo)?

Bậc thành tựu ba minh (vijjā) gọi là hạng người tam minh.

[37] - Thế nào là hạng người lục thông (chalabhiñño)?

Bậc thành tựu sáu diệt-trí (abhiññā), gọi là hạng người lục thông.

[38] - Thế nào là hạng người Chánh đẳng giác (sammāsambuddho)?

Ở đây có hạng người tự mình giác ngộ tứ đế đối với pháp chưa từng nghe, trong ấy đắc được nhất-thiết-trí (sabbaññuta) và khả năng tuệ lực (balavasībhāva). Ðây là hạng người Chánh đẳng giác.

[39] - Thế nào là hạng người độc giác (paccekasambuddha)?

Ở đây có hạng người tự mình giác ngộ tứ đế đối với pháp chưa từng nghe, nhưng hạng này không đắc được nhất-thiết-trí và khả năng tuệ lực. Ðây gọi là hạng người độc giác.

[40] - Thế nào là hạng người câu phần giải thoát (ubha-tobhāgavimutto)?

Ở đây hạng người thân chứng đắc an trú trong bát giải thoát (attha vimokkhe) (1) và dùng trí tỏ ngộ nên các lậu hoặc của vị ấy được tận diệt. Ðây gọi là hạng người câu phần giải thoát.

[41] - Thế nào là hạng người tuệ giải thoát (paññāvimutto)?

Ở đây có người thân không chứng đắc an trú trong bát giải thoát, nhưng với trí tỏ ngộ nên các lậu hoặc của vị ấy được tận diệt. Ðây gọi là hạng người tuệ giải thoát.

[42] - Thế nào là hạng người thân chứng (kāyasakkhī)?

Ở đây có người thân chứng đắc an trú trong bát giải thoát, nhưng người ấy khi với trí tỏ ngộ chỉ có một số lậu hoặc được tận diệt thôi. Ðây gọi là hạng người thân chứng.

[43] - Thế nào là hạng người kiến đắc (diṭṭhippatto)?

Ở đây có người hiểu như thật rằng "đây là khổ" hiểu như thật rằng "đây là khổ tập", hiểu như thật rằng "đây là khổ diệt", hiểu như thật rằng "đây là khổ diệt hành lộ"; Các pháp Như Lai tuyên thuyết đã được người ấy nhận định, thẩm sát bằng trí; Nhưng người ấy khi với trí tỏ ngộ chỉ có một số lậu hoặc được tận diệt thôi. Ðây gọi là hạng người kiến đắc.

[44] - Thế nào là hạng người tín giải thoát (saddhāvimutto)? Ở đây có người hiểu như thật rằng: "Ðây là khổ", hiểu như thật rằng: "đây là khổ tập", hiểu như thật rằng: "đây là khổ diệt", hiểu như thật rằng "đây là khổ diệt hành lộ"; các pháp Như Lai tuyên thuyết, đã được người ấy nhận định nhưng người ấy khi với trí tỏ ngộ chỉ có một số lậu hoặc được tận diệt thôi. Tuy nhiên không phải như hạng kiến đắc (diṭṭhippatta). Ðây gọi là hạng người tín giải thoát.

[45] - Thế nào là hạng người tùy pháp hành (dhammānusārī)?

Ðối với hạng người tiến hành tác chứng quả dự lưu mà tu triển thánh đạo có khuynh hường tuệ quyền (paññindriyaṃ), tuệ hướng đạo (paññāvāhiṃ), tuệ tiên - phuông (paññāpubbanramaṃ) thì đây gọi là hạng người tùy pháp hành.

Người đang tiến hành tác chứng quả dự lưu, là người tùy pháp hành (dhammā-nusārī); còn người đã trú trong bậc quả là người kiến chí (diṭṭhippatto).

[46] - Thế nào là hạng người tùy tín hành (saddhānusārī)?

Ðối với hạng người tiến hành tác chứng quả dự - lưu mà tu triển thánh đạo có khuynh hướng tín quyền (saddhindriyaṃ), tín hướng đạo (saddhāvāhiṃ), tín tiên - phuông (saddhāpubbangamam), thì đây gọi là hạng người tùy tín hành.

Người đang tiến hành tác chứng quả dự lưu là người tùy tín hành; còn người đã trú trong bậc quả, là người tín giải thoát (saddhāvimutto).

[47] - Thế nào là hạng người cực thất lai (sattakkhattutaramo)?

Ở đây có hạng người dự lưu (sotāpanno) do đoạn tận ba triền phược, chắc chắn không rợi đọa xứ, nhất định thành tựu giác ngộ, vị ấy còn dong ruổi luận hồi trong cỏi chư thiên và nhân loại bảy lần nửa mới chấm dứt khổ. Ðây gọi là hạng người cực thất lai.

[48] - Thế nào là hạng người gia-gia (kolankolo)?

Ở đây có hạng người dự lưu do đoạn tận ba triền phược, chắc chắn không rơi đọa xứ, nhất định thành tựu giác ngộ, vị ấy còn dong ruổi luân hồi qua hai hoặc ba gia chủng (kula) nữa mới chấm dứt khổ. Ðây là hạng người gia-gia .

[49] - Thế nào là hạng người nhất chủng sanh (ekabījī)?

Ở đây có hạng người dự lưu do đoạn tận ba triền phược, chắc chắn không rơi đọa xứ, nhất định thành tựu giác ngộ, vị ấy chỉ sanh lại cõi đời một lần nữa rồi chấm dứt khổ. Ðây gọi là hạng người nhất chủng sanh

[50] - Thế nào là hạng người nhất lai (sakadāgāmī)?

Ở đây có người do đoạn tận ba triền phược, giảm thiểu tham - sân - si, thành bậc nhất - lai,chỉ trở lại đời này một lần rồi chấm dứt khổ. Ðây gọi là hạng người nhất lai.

[51] - Thế nào là hạng người bất lai (anāgāmī)?

Ở đây có hạng người do đoạn tận năm hạ phần triền phược, thành hạng hóa sanh thiên sẽ níp - bàn tại đấy, trừ cõi đó không còn trở lui nữa. Ðây gọi là hạng người bất lai

[52] - Thế nào là hạng người trung bang bất hoàn (antarāparinibbāyī)?

Ở đây có hạng người do đoạn tận năm hạ phần triền phược, thành hạng hóa sanh thiên sẽ níp - bàn tại đấy, từ cõi đó không còn trở lui nữa; vị ấy sẽ trừ các thượng phần triền phược, phát sanh thánh đạo vào tuổi thọ giữa thời hoặc chưa đến nửa đời. Ðây gọi là hạng người trung bang bất hoàn.

[53] - Thế nào là hạng người sanh bang bất hoàn (upahaccaparinibbāyī)?

Ở đây có người do đoạn tận năm hạ phần triền phược, thành hạng hóa sanh thiên sẽ níp - bàn tại đấy, từ cõi đó không còn trở lui nữa; vị ấy sẽ trừ các thượng phần triền phược, phát sanh thánh đạo vào tuổi thọ đã quá nửa đời hay sắp chết. Ðây gọi là hạng người sanh bang bất hoàn.

[54] - Thế nào là hạng người vô hành bang bất hoàn (asankhāraparinibbāyī)?

Ở đây có người do đoạn tận năm hạng phần triền phược, thành hạng hóa thiên, sẽ níp-bàn tại đấy, từ cõi đó không còn trở lui nữa; vị ấy sẽ trừ các thượng phần triền phược, phát sanh thánh đạo bằng cách không cần trợ dẫn. Ðây gọi là hạng người vô hành bang bất hoàn.

[55] - Thế nào là hạng người hửu hành bang bất hoàn (sasankhāraparinibbāyī)?

Ở đây có người do đoạn tận năm hạ phần triền phược, thành hạng hóa sanh thiên, sẽ níp - bàn tại đấy, từ cõi đó không còn trở lui nữa; vị ấy sẽ trừ các thượng phần triền phược, phát sanh thánh đạo bằng cách cần có trợ dẫn. Ðây gọi là hạng người hữu hành bang bất hoàn.

[56] - Thế nào là hạng người thượng lưu sắc cứu cánh thiện thú (uddhamsoto akaniṭṭhagāmī)?

Ở đây có người do đoạn tận năm hạ phần triền phược, thanh hạng hóa sanh thiên sẽ níp bàn tại đấy, từ cõi đó không còn trở lui nữa; vị ấy chết từ cõi vô phiền sanh đến cõi vô-nhiệt, chết từ cõi vô nhiệt, sanh đến cõi thiện hiện, chết từ cõi thiện hiện, sanh đến cõi thiện kiến, chết từ cõi thiện kiến, sanh đến cõi sắc cứu cánh, sẽ trừ các thượng phần triền phược, phát sanh thánh đạo trong cõi sắc cứu-cánh. Ðây gọi là hạng người thượng lưu sắc cứu cánh thiện thú.

[57] - Thế nào là hạng người dự lưu (sotāpañño) tiến hành chứng quả dự lưu (sotāpattiphalasacchikiriyāyapatipanno)?

Hạng người đang tiến hành để trừ ba triền phược, là người tiến thánh chứng quả dự lưu; đối với người nào ba triền phược đã được trừ, đây gọi là hạng người dự lưu.

Hạng người đang tiến hành để giảm thiểu dục tham và sân độc, là người tiến hành chứng quả nhất lai; đối với người nào dục tham và sân độc đã được giảm thiểu, đây gọi là hạng người nhất lai.

Hạng người đang tiến hành để hoàn toàn trừ dục tham và sân độc, là người tiến hành chúng quả bất lai; đối với người nào mà dục tham và sân độc đã hoàn toàn trừ, đây gọi là hạng người bất lai.

Hạng người đang tiến hành để hoàn toàn trừ sắc ái vô sắc ái, ngã mạn phóng dật và vô minh, là người tiến hành chứng quả ưng-cúng; đối với người nào mà sắc ái, vô sắc ái, ngã mạn, phóng dật và vô minh đã được hoàn toàn đoạn trừ, đây gọi là hạng người ưng cúng.

DỨT PHẦN XIỂN MINH MỘT CHI



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada