Ðiểm tranh luận: Không có tưởng ở cõi phi tưởng phi phi tưởng.

Theo chú giải: Quan niệm của phái Andhakas, ở đây, bằng những lập luận hữu lý, quan niệm này được chỉnh đốn bởi phái Theravādins.

(1) Theravādins: - Nhưng có phải Ngài không cho rằng ở cõi này có vô tưởng hữu, vô tưởng thú hướng, vô tưởng ngã trụ, vô tưởng luân hồi, vô tưởng sanh và vô tưởng tự báo thân?

(2) Có phải Ngài không cho rằng chúng sanh ở cõi này có nhất uẩn hữu ... nhứt uẩn tự báo thân? Và có phải Ngài không cho rằng cõi này có tứ uẩn hữu ... tự uẩn tự báo thân?

(3) Nếu chúng ta từ chối có tâm, có tưởng, đối với chúng sanh cõi vô tưởng và cho rằng cõi này có vô tưởng hữu ... vô tưởng tự báo thân; làm thế nào Ngài có thể từ chối có tâm, có tưởng ở cõi phi tưởng phi phi tưởng trong những sự diễn đạt bằng những danh từ giống như vậy? Hoặc là, làm thế nào chúng ta có thể nói rằng ở cõi này chỉ có nhứt uẩn với những danh từ diễn đạt như trên?

(4) Nếu quan điểm của Ngài hữu lý, và dù Ngài cho rằng cõi này là cõi hữu tưởng, thì tương tự, trong sự khước từ có tưởng ở cõi vô tưởng. Ngài phải cho rằng cõi đó có tưởng hữu ... tưởng tự báo thân. Ðiều này thật vô lý.

Áp dụng tương tự cho tứ uẩn hữu.

(5) Nếu Ngài từ khước có tưởng ở cõi này, tuy nhiên vẫn gọi cõi này là cõi tứ uẩn, thì quan điểm của Ngài rõ ràng là không hữu lý.

(6) Ngài thừa nhận ở cõi phi tưởng phi phi tưởng có tứ uẩn hữu, trong khi Ngài lại cho rằng không có tưởng ở cõi này. Có phải Ngài thừa nhận có tưởng ở cõi (thấp hơn) được gọi là "không vô biên xứ"? Và có tưởng ở những cõi (cao hơn) "Thức vô biên xứ" và "vô sở hữu xứ". Do vậy, tại sao lại không tưởng ở cõi (cao nhất) "Phi tưởng phi phi tưởng xứ"?

(7) Làm thế nào Ngài có thể chấp nhận chỉ có tưởng đối với ba cõi mà lại không chấp nhận đối với cõi thứ tư (phi tưởng phi phi tưởng), trong khi Ngài vẫn công nhận từng cõi là tứ uẩn.?

(8 - 10) Có phải Ngài phản đối điều này trong cõi phi tưởng phi phi tưởng? Ngài đồng ý? Nhưng tại sao, trong khi Ngài chấp nhận sự hiện hữu của Tứ uẩn? Lại nữa, tại sao trong khi Ngài chấp nhận tứ uẩn trong trường hợp ba cõi kia mà cũng chấp nhận đối vo9í cõi phi tưởng phi phi tưởng?

(11) Ngài thừa nhận ở cõi này có vấn đề là không phải có tưởng, tuy nhiên Ngài vẫn duy trì quan niệm sai lầm khi nói rằng ở cõi đó có tưởng cũng không phải mà không có tưởng cũng không phải.

(12) Lấy một cảm thọ vô ký - Có sai lầm không khi nói rằng cảm thọ vô ký là cảm thọ không cảm thọ? Ngài đồng ý rằng "Không thể nói như vậy". Như vậy, những điều khác có thể được nói đến như thế nào?

(1) xem Rhys Davids, Early Buddhism , 49; Rhys Davids: Buddhism 69.

(2) Animitte Appanihita, Bud . Psy. Eth., p 91 & 344.

(3) Xem Abhi-Sang. Chương I, bộ vi, chương Như lai lực

(1) Sarāgam.

(1) Dl. i 93.

(2) Dl. i 92

(3) Gotrabhu.

(1) Xem Bud. Psy. Eth. Tr.4 và 19, &19, Comp. 17.

(1) Niyyānika. Xem Bud. Psy. Eth. p. 82, n2

(2) S. v 202

(1) Xem Comp. 159, n 6

(2) Itivuttaka, 61.

(3) Xem Dl. i 89; M. ii 19.

(1) D. i 82.

(2) Thag. 996, 997

(1) Xem Comp. p.136.

(2) Vibhanga 135 ; S ii 2

(3) D. iii 33.

(1) D. iii 33.

-ooOoo-



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada