Các tỳ khưu dòng dõi Vajji ở Vesāli đã nghe rằng: “Nghe nói Yasa con trai của Kākaṇḍaka có ý định nắm lấy sự tranh tụng này nên tầm cầu phe nhóm, và nghe nói đã đt được phe nhóm.” Khi ấy, các tỳ khưu dòng dõi Vajji ở Vesāli đã khởi ý điều này: “Tranh sự này quả là khó khăn và tế nhị. Người nào mà chúng ta có thể đt được chung nhóm, nhờ thế chúng ta trong sự tranh tụng này sẽ là lực lượng mạnh hơn?” Rồi các tỳ khưu dòng dõi Vajji ở Vesāli đã khởi ý điều này: “Chính vị đi đức Revata này ngụ tại Soreyya là vị nghe nhiều, kinh đin được truyền thừa, rành rẽ về Pháp, rành rẽ về Luật, rành rẽ về các đu đề, là bậc sáng trí, kinh nghiệm, thông minh, khiêm nhường, có hối hận, ưa thích sự học tập. Nếu chúng ta có thể đt đưc đi đc Revata chung nhóm, như thế chúng ta trong sự tranh tụng này sẽ là lực lượng mạnh hơn.”

Khi ấy, các tỳ khưu dòng dõi Vajji ở Vesāli đã chuẩn bị nhiều vật dụng cần thiết cho Sa-môn là bình bát, y phục, vật lót ngồi, ống đựng kim, dây thắt lưng, đ lưc nưc, và đồ lọc nưc thông thưng. Sau đó, các t khưu dòng dõi Vajji ở Vesāli đã mang theo vật dụng cần thiết cho Sa-môn ấy đáp thuyn ngược giòng đi Sahajāti. Sau khi rời thuyền, họ thực hiện việc chia phần thức ăn ở gốc cây nọ.

Khi ấy, đi đc Sāḷha trong lúc thiền tịnh ở nơi thanh vng đã có tư tưởng suy tầm khởi lên như vầy: “Những ai là ngưi nói đúng Pháp, các t khưu ở về hướng Đông hay là các t khưu  Pāvā?” Sau đó, đi đc Sāḷha trong khi quán xét về Pháp và Luật đã khởi ý điều này: “Các tỳ khưu ở về hưng Đông là các vị nói phi Pháp, các tỳ khưu  Pāvā là các vị nói đúng Pháp.” Khi ấy, có vị Trời nọ ở cõi Tịnh Cư dùng tâm biết đưc tư tưởng suy tầm của đi đc Sāḷha, rồi giống như ngưi đàn ông có sức mạnh có thể duỗi ra cánh tay đã được co lại, hoặc có thể co lại cánh tay đã được duỗi ra, tương t y như thế, vị ấy đã biến mất giữa chư Thiên ở cõi Tịnh Cư và hin ra trước mặt đi đc Sāḷha. Khi ấy, vị Trời ấy đã nói với đi đc Sāha điu này: - “Thưa ngài Sāha, đúng vậy. Các tỳ khưu ở về hưng Đông là các vị nói phi Pháp, các tỳ khưu  Pāvā là các vị nói đúng Pháp. Thưa ngài Sāḷha, chính vì điều ấy ngài hãy duy trì theo đúng Pháp.” - “Này vị Trời, ngay cả trưc đây và bây giờ ta luôn duy trì theo đúng Pháp; nhưng ta không bộc lộ quan đim cho đến khi ấy, có lẽ (hội chúng) sẽ chỉ định ta trong sự tranh tụng này.”

Sau đó, các t khưu dòng dõi Vajji ở Vesāli sau khi cầm lấy số vật dụng cần thiết cho Sa-môn ấy đã đi đến gặp đi đc Revata, sau khi đến đã nói với đi đc Revata điu này: - “Thưa ngài, xin trưởng lão hãy nhận lấy vật dụng cần thiết cho Sa-môn là bình bát, y phục, vật lót ngồi, ống đựng kim, dây thắt lưng, đ lưc nưc, và đồ lọc nưc thông thưng.” - “Này các đi đc, thôi đi. Ta đã đy đ ba y.” Và đã không muốn thọ nhận.

Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu đưc hai mươi năm tên Uttara là thị giả của đi đức Revata. Khi ấy, các tỳ khưu dòng dõi Vajji ở Vesāli đã đi đến gặp đi đc Uttara, sau khi đến đã nói với đi đc Uttara điu này: - “Xin đi đức Uttara hãy nhận lấy vật dụng cần thiết cho Sa-môn là bình bát, y phục, vật lót ngồi, ống đựng kim, dây thắt lưng, đ lưc nưc, và đồ lọc nưc thông thưng.” - “Này các đi đc, thôi đi. Ta đã đy đ ba y.” Và đã không muốn thọ nhận.

- “Này đi đc Uttara, dân chúng thường dâng vật dụng cần thiết cho Sa-môn đến đức Thế Tôn. Nếu đức Thế Tôn thọ nhận, chính vì điều ấy họ trở nên hoan hỷ. Nếu đức Thế tôn không thọ nhận, họ dâng đến đi đc Ānanda: ‘Thưa ngài, xin trưởng lão hãy nhận lấy vật dụng cần thiết cho Sa-môn là bình bát, y phục, vật lót ngồi, ống đựng kim, dây thắt lưng, đồ lọc nước, và bình đng nưc. Như thế sẽ xem như vật ấy đã đưc đức Thế Tôn thọ lãnh.’ Xin đi đức Uttara hãy nhận lấy vật dụng cần thiết cho Sa-môn; như thế sẽ xem như vật ấy đã đưc ngài trưởng lão thọ lãnh.”

Khi ấy, đi đức Uttara bị ép buộc bởi các tỳ khưu dòng dõi Vajji ở Vesāli đã nhận lấy một y (nói rằng): - “Này các đi đức, hãy nói lý do về việc này.” - “Xin đi đức Uttara hãy nói với ngài trưởng lão chỉ có một điu này: ‘Thưa ngài, xin ngài trưởng lão hãy nói giữa hội chúng chỉ có một điu này: Chư Phật Thế Tôn đều sanh lên trong các xứ sở ở hưng đông. Các t khưu ở về hưng Đông là các v nói đúng Pháp, còn các tỳ khưu  Pāvā là các vị nói phi Pháp.’” - “Này các đi đc, được rồi.” Rồi đi đức Uttara nghe theo các tỳ khưu dòng dõi Vajji ở Vesāli đã đi đến gặp đi đc Revata, sau khi đến đã nói với đi đc Revata điu này: - “Thưa ngài, xin ngài trưởng lão hãy nói giữa hội chúng chỉ có một điu này: ‘Chư Phật Thế Tôn đều sanh lên trong các xứ sở ở hướng đông. Các t khưu ở về hưng Đông là các v nói đúng Pháp, còn các tỳ khưu  Pāvā là các vị nói phi Pháp.’”

- “Này tỳ khưu, ngươi đã xúi giục ta trong việc phi Pháp.” Vị trưởng lão đã đui đi đc Uttara đi. Khi ấy, các tỳ khưu dòng dõi Vajji ở Vesāli đã nói với đi đc Uttara điu này: - “Này đi đc Uttara, ngài trưởng lão đã nói gì?” - “Này các đi đc, chúng ta đã làm điều tầm bậy. Ngài trưởng lão đã đui tôi đi (nói rằng): ‘Này tỳ khưu, ngươi đã xúi giục ta trong việc phi Pháp.’”

- “Này đi đức Uttara, không phải đi đc đã thâm niên hai mươi năm ri hay sao?” - “Này các đi đc, đúng vậy. Tuy nhiên, chúng tôi còn giữ sự nương nhờ với vị thầy.”

Sau đó, hội chúng có ý muốn phân xử sự tranh tụng ấy đã tụ hội lại. Khi ấy, đi đc Revata đã thông báo đến hội chúng rằng: - “Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Nếu chúng ta giải quyết sự tranh tụng này ở nơi đây, các t khưu là những vị khởi sự có thể nêu lại vấn đề một lần nữa. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên giải quyết sự tranh tụng này ở ngay tại nơi mà sự tranh tụng này đã sanh khởi.” Sau đó, các t khưu trưởng lão có ý muốn phân xử sự tranh tụng ấy đã đi đến Vesāli.

Vào lúc bấy giờ, vị trưởng lão của hội chúng trên trái đất có tên Sabbakāmī đã tu lên bậc trên được một trăm hai mươi năm, là đệ tử của đi đc Ānanda, đang trú  Vesāli. Khi y, đi đc Revata đã nói với đi đc Sambhūta Sāavāsī điu này: - “Này sư đệ, tôi sẽ đi đến trú xá nơi trưởng lão Sabbakāmī đang trú ng; sư đ đây nên đi đến gặp đi đc Sabbakāmī vào đúng lúc để hỏi về mười sự việc ấy.” - “Thưa ngài, xin vâng.” Đi đc Sambhūta Sāavāsī đã đáp li đi đc Revata. Sau đó, đi đc Revata đã đi đến trú xá nơi trưởng lão Sabbakāmī đang trú ngụ.

Chỗ nằm ngồi của đi đc Sabbakāmī là được sếp đặt ở phòng trong, còn của đi đức Revata ở mặt tiền của phòng trong. Khi ấy, đi đức Revata (nghĩ rằng): ‘Vị trưởng lão cao niên này không nằm’ nên không nằm xuống. Đi đc Sabbakāmī (nghĩ rằng): ‘Vị tỳ khưu vãng lai này đang mệt vẫn không nằm’ rồi đã không nằm xuống.

Sau đó, trong đêm vào lúc hng sáng, đi đc Sabbakāmī sau khi đứng dậy đã nói với đi đc Revata điu này: - “Này sư đệ mến, hiện nay ngươi thường xuyên an trú với sự an trú nào?” - “Thưa ngài, hin nay tôi thường xuyên an trú với sự an trú tâm từ.” - “Này sư đệ mến, nghe nói hiện nay ngươi thường xuyên an trú với sự an trú còn nông cạn. Này sư đệ mến, sự an trú còn nông cạn ấy tức là tâm từ.”

- “Thưa ngài, trưc đây khi tôi còn là người tại gia, tâm từ đã được thực hành. Vì thế, hiện nay tôi thường xuyên an trú với sự an trú tâm từ, hơn na tôi đã chứng đạt phẩm vị A-la-hán lâu nay. Thưa ngài, hin nay ngài trưởng lão thường xuyên an trú với sự an trú nào?” - “Này sư đệ mến, hiện nay ta thường xuyên an trú với sự an trú trạng thái không?”

- “Thưa ngài, nghe nói hiện nay ngài trưởng lão thường xuyên an trú với sự an trú của bậc đi nhân. Thưa ngài, sự an trú của bậc đại nhân ấy tức là trạng thái không.” - “Này sư đệ mến, trưc đây khi ta còn là người tại gia, trạng thái không đã được thực hành. Vì thế, ngay cả bây giờ ta thường xuyên an trú với sự an trú trạng thái không, hơn na ta đã chứng đạt phẩm vị A-la-hán lâu nay.” Lúc bấy giờ, cuộc nói chuyện trao đổi này của hai vị tỳ khưu trưởng lão là chưa chấm dứt.

Rồi đi đc Sambhūta Sāavāsī đã ngự đến nơi ấy. Khi ấy, đi đc Sambhūta Sāavāsī đã đi đến gặp đi đc Sabbakāmī, sau khi đến đã đảnh lễ đi đc Sabbakāmī rồi ngồi xuống một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, đi đc Sambhūta Sāavāsī đã nói với đi đc Sabbakāmī điu này: - “Thưa ngài, các t khưu dòng dõi Vajji này ở Vesāli truyền bá trong thành Vesāli mười sự việc: ‘Quy định cất giữ muối trong ống sừng là đưc phép, quy đnh hai ngón tay là đưc phép, quy đnh trong làng là đưc phép, quy định về chỗ trú ngụ là đưc phép, quy định về sự thỏa thuận là được phép, quy định theo tập quán là đưc phép, quy đnh chưa được khuấy là đưc phép, quy định uống nưc trái cây lên men là đưc phép, quy định vật lót ngồi không có viền quanh là được phép, vàng bạc là đưc phép.’ Thưa ngài, ngài trưởng lão đã học tập được nhiều Pháp và Luật ở chân của thầy tế đ; thưa ngài, khi ngài trưởng lão quán xét về Pháp và Luật thì khởi ý thế nào? Những ai là ngưi nói đúng Pháp, các t khưu ở về hưng Đông hay là các t khưu  Pāvā?”

- “Này sư đ, ngươi cũng đã học tập được nhiều Pháp và Luật ở nguồn gốc của thầy tế đ; này sư đ, khi ngươi quán xét về Pháp và Luật thì khởi ý thế nào? Những ai là ngưi nói đúng Pháp, là các t khưu ở về hưng Đông hay là các t khưu  Pāvā?” - “Thưa ngài, khi tôi quán xét về Pháp và Luật thì khởi ý như vầy: ‘Các tỳ khưu ở về hưng Đông là các vị nói phi Pháp, các tỳ khưu  Pāvā là các vị nói đúng Pháp;’ tuy nhiên tôi không bộc lộ quan đim cho đến khi ấy, có lẽ (hội chúng) sẽ chỉ định tôi trong sự tranh tụng này.”

- “Này đệ, ngay cả ta khi quán xét về Pháp và Luật cũng khởi ý như vầy: ‘Các tỳ khưu ở về hưng Đông là các vị nói phi Pháp, các tỳ khưu  Pāvā là các vị nói đúng Pháp;’ tuy nhiên ta không bộc lộ quan đim cho đến khi ấy, có lẽ (hội chúng) sẽ chỉ định ta trong sự tranh tụng này.”

Sau đó, hội chúng có ý muốn phân xử sự tranh tụng ấy đã tụ hội lại. Trong khi sự tranh tụng ấy đang được phân xử, các lời bàn cãi vô bổ được sanh lên, và không một lời phát biểu nào được xem là có ý nghĩa. Khi ấy, đi đc Revata đã thông báo đến hội chúng rằng: - “Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Trong khi sự tranh tụng này của chúng ta đang được xem xét, các lời bàn cãi vô bổ được sanh lên, và không một lời phát biểu nào được xem là có ý nghĩa. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên giải quyết sự tranh tụng này bằng đại biểu. Hội chúng đã chọn bốn vị tỳ khưu  hưng Đông, bốn vị tỳ khưu  Pāvā: Đi đc Sabbakāmī, đi đc Sāha, đi đc Ujjasobhita, đi đc Vāsabhagāmika là (đại biểu) của các tỳ khưu  hưng Đông, đi đc Revata, đi đức Sambhūta Sāavāsī, đi đức Yasa con trai của Kākaṇḍaka, và đi đc Sumana là (đại biểu) của các tỳ khưu  Pāvā.”

Sau đó, đi đc Revata đã thông báo đến hội chúng rằng: - “Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Trong khi sự tranh tụng này của chúng ta đang được xem xét, các lời bàn cãi vô bổ được sanh lên, và không một lời phát biểu nào được xem là có ý nghĩa. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên chỉ định bốn vị tỳ khưu  hưng Đông, bốn vị tỳ khưu  Pāvā để giải quyết sự tranh tụng này bằng đại biểu. Đây là li đề nghị.

Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Trong khi sự tranh tụng này của chúng ta đang được xem xét, các lời bàn cãi vô bổ được sanh lên, và không một lời phát biểu nào được xem là có ý nghĩa. Hội chúng chỉ định bốn vị tỳ khưu  hưng Đông, bốn vị tỳ khưu  Pāvā để giải quyết sự tranh tụng này bằng đại biểu. Đi đức nào thỏa thuận sự chỉ định bốn vị tỳ khưu  hưng Đông, bốn vị tỳ khưu  Pāvā để giải quyết sự tranh tụng này bằng đại biểu xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.

Bốn vị tỳ khưu  hưng Đông, bốn vị tỳ khưu  Pāvā đã được hội chúng chỉ đnh để giải quyết sự tranh tụng này bằng đại biểu. Hội chúng thỏa thuận nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”

Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu tên Ajita, đưc mưi năm, là v đọc tụng giới bổn Pātimokkha. Khi ấy, hội chúng cũng đã chỉ đnh đi đức Ajita là vị sắp xếp chỗ ngồi cho các tỳ khưu trưởng lão. Khi ấy, các tỳ khưu trưởng lão đã khởi ý điều này: “Chúng ta nên giải quyết sự tranh tụng này ở đâu?” Khi ấy, các tỳ khưu trưởng lão đã khởi ý điều này: “Tu viện Vālika này xinh xắn ít tiếng động, ít ồn ào; hay là chúng ta nên giải quyết sự tranh tụng này ở tu viện Vālika?” Sau đó, các t khưu trưởng lão có ý muốn phân xử sự tranh tụng ấy đã đi đến tu viện Vālika. Sau đó, đi đc Revata đã thông báo đến hội chúng rằng: - “Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, tôi sẽ hỏi đi đc Sabbakāmī về Luật.” Đi đc Sabbakāmī đã thông báo đến hội chúng rằng: - “Này các sư đệ, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, khi được vị Revata hỏi về Luật, tôi sẽ trả lời.” Sau đó, đi đc Revata đã hỏi đi đc Sabbakāmī điều này:

- “Thưa ngài, quy định cất giữ muối trong ống sừng là đưc phép?” - “Này sư đ, quy định cất giữ muối trong ống sừng ấy là gì?” - “Thưa ngài, là mang theo muối bằng ống sừng (nghĩ rằng): ‘Ta sẽ thọ dụng vào trường hợp (thức ăn) thiếu muối,’ có đưc phép không?” - “Này sư đ, không được phép.” - “(Việc ấy) được phủ quyết ở đâu?” - “ Sāvatthi, trong Suttavibhaṅga (Phân Tích Giới Bổn).” - “(Làm việc ấy) phạm tội gì?” - “Phạm tội pācittiyavề vật thực đã được tích trữ.”[4] - “Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi, sự việc thứ nhất này đã được hội chúng phân xử. Như thế, sự việc này là không đúng Pháp, không đúng Lut, đi sái lời dạy của bậc Đo Sư. Tôi để riêng thẻ thứ nhất này.”

- “Thưa ngài, quy đnh hai ngón tay là đưc phép?” - “Này sư đ, quy định hai ngón tay ấy là gì?” - “Thưa ngài, là ăn vật thực sái giờ khi bóng nắng mặt trời (chiếu ở trên đt) đã quá hai ngón tay, có đưc phép không?” - “Này sư đ, không được phép.” - “(Việc ấy) được phủ quyết ở đâu?” - “Ở thành Rājagaha, trong Suttavibhaṅga.” - “(Làm việc ấy) phạm tội gì?” - “Phạm tội pācittiya về vật thực sái giờ.”[5] - “Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi, sự việc thứ nhì này đã được hội chúng phân xử. Như thế, sự việc này là không đúng Pháp, không đúng Lut, đi sái lời dạy của bậc Đo Sư. Tôi để riêng thẻ thứ nhì này.”

iii. - “Thưa ngài, quy đnh trong làng là đưc phép?” - “Này sư đ, quy định trong làng ấy là gì?” - “Thưa ngài, là v đã ăn xong, đã ngăn vật thực (nghĩ rằng): ‘Bây giờ, ta sẽ đi vào trong làng’ rồi thọ dụng thức ăn không phải là còn thừa lại (từ bữa ăn), có được phép không?” - “Này sư đ, không được phép.” - “(Việc ấy) được phủ quyết ở đâu?” - “ Sāvatthi, trong Suttavibhaṅga.” - “(Làm việc ấy) phạm tội gì?” - “Phạm tội pācittiya về vật thực không phải là còn thừa.”[6] - “Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi, sự việc thứ ba này đã được hội chúng phân xử. Như thế, sự việc này là không đúng Pháp, không đúng Lut, đi sái lời dạy của bậc Đo Sư. Tôi để riêng thẻ thứ ba này.”

- “Thưa ngài, quy định về chỗ trú ngụ là đưc phép?” - “Này sư đ, quy định về chỗ trú ngụ ấy là gì?” - “Thưa ngài là nhiều trú xứ có chung ranh giới thực hiện lễ Uposatha riêng biệt, có đưc phép không?” - “Này sư đ, không được phép.” - “(Việc ấy) được phủ quyết ở đâu?” - “ Rājagaha, trong phn liên quan đến lễ Uposatha.” - “(Làm việc ấy) phạm tội gì?” - “Phạm tội dukkaṭa về việc vượt quá Luật.” - “Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi, sự việc thứ tư này đã được hội chúng phân xử. Như thế, sự việc này là không đúng Pháp, không đúng Lut, đi sái lời dạy của bậc Đo Sư. Tôi để riêng thẻ thứ tư này.”

- “Thưa ngài, quy định về sự thỏa thuận là đưc phép?” - “Này sư đ, quy định về sự thỏa thuận ấy là gì?” - “Thưa ngài là thực hiện hành sự với hội chúng không đủ số lượng (nghĩ rằng): ‘Chúng ta sẽ thuyết phục các tỳ khưu đi đến,’ có đưc phép không?” - “Này sư đ, không được phép.” - “(Việc ấy) được phủ quyết ở đâu?” - “Ở trong câu chuyện về Luật của các vị ở Campā.” - “(Làm việc ấy) phạm tội gì?” - “Phạm tội dukkaṭa về việc vượt quá Luật.” - “Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi, sự việc thứ năm này đã được hội chúng phân xử. Như thế, sự việc này là không đúng Pháp, không đúng Lut, đi sái lời dạy của bậc Đo Sư. Tôi để riêng thẻ thứ năm này.”

- “Thưa ngài, quy định theo tập quán là đưc phép?” - “Này sư đ, quy định theo tập quán ấy là gì?” - “Thưa ngài là (vị nghĩ rằng): ‘Điu này đã được thực hành bởi thầy tế độ của ta, điu này đã được thực hành bởi thầy giáo thọ của ta’ rồi thực hành theo, có đưc phép không?” - “Này sư đ, quy định theo tập quán có điu đưc phép, có điều không được phép.” - “Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi, sự việc thứ sáu này đã được hội chúng phân xử. Như thế, sự việc này là không đúng Pháp, không đúng Lut, đi sái lời dạy của bậc Đo Sư. Tôi để riêng thẻ thứ sáu này.”

vii. - “Thưa ngài, quy đnh chưa được khuấy là đưc phép?” - “Này sư đ, quy đnh chưa được khuấy ấy là gì?” - “Thưa ngài, có loại sữa đã qua khỏi trạng thái sữa nhưng chưa đt đến trạng thái sữa đông, v đã ăn xong, đã ngăn vật thực, uống loại sữa ấy không phải là còn thừa lại (từ bữa ăn), có đưc phép không?” - “Này sư đ, không được phép.” - “(Việc ấy) được phủ quyết ở đâu?” - “ Sāvatthi, trong Suttavibhaṅga.” - “(Làm việc ấy) phạm tội gì?” - “Phạm tội pācittiya về vật thực không phải là còn thừa.”[7] - “Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi, sự việc thứ bảy này đã được hội chúng phân xử. Như thế, sự việc này là không đúng Pháp, không đúng Lut, đi sái lời dạy của bậc Đo Sư. Tôi để riêng thẻ thứ bảy này.”

viii. - “Thưa ngài, quy định uống nước trái cây lên men là đưc phép?” - “Này sư đ, nước trái cây lên men ấy là gì?” - “Thưa ngài, là uống loại rượu vừa mới lên men nhưng chưa đt đến trạng thái rượu mạnh, uống loại ấy có đưc phép không?” - “Này sư đ, không được phép.” - “(Việc ấy) được phủ quyết ở đâu?” - “Ở Kosambi, trong Suttavibhaṅga.” - “(Làm việc ấy) phạm tội gì?” - “Phạm tội pācittiya về việc uống rượu và chất say.”[8] - “Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi, sự việc thứ tám này đã được hội chúng phân xử. Như thế, sự việc này là không đúng Pháp, không đúng Lut, đi sái lời dạy của bậc Đo Sư. Tôi để riêng thẻ thứ tám này.”

- “Thưa ngài, quy định vật lót ngồi không có viền quanh là đưc phép?” - “Này sư đ, không được phép.” - “(Việc ấy) được phủ quyết ở đâu?” - “ Sāvatthi, trong Suttavibhaṅga.” - “(Làm việc ấy) phạm tội gì?” - “Phạm tội pācittiya về vật cần được cắt bỏ.”[9] - “Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi, sự việc thứ chín này đã được hội chúng phân xử. Như thế, sự việc này là không đúng Pháp, không đúng Lut, đi sái lời dạy của bậc Đo Sư. Tôi để riêng thẻ thứ chín này.”

- “Thưa ngài, vàng bc là đưc phép?” - “Này sư đ, không được phép.” - “(Việc ấy) được phủ quyết ở đâu?” - “ Rājagaha, trong Suttavibhaṅga.” - “(Làm việc ấy) phạm tội gì?” - “Phạm tội pācittiya về việc thọ nhận vàng bạc.”[10] - “Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi, sự việc thứ mưi này đã được hội chúng phân xử. Như thế, sự việc này là không đúng Pháp, không đúng Lut, đi sái lời dạy của bậc Đo Sư. Tôi để riêng thẻ thứ mười này.”  

“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi, mười vấn đ này đã được hội chúng xác đnh. Như thế, mười sự việc này là không đúng Pháp, không đúng Lut, đi sái lời dạy của bậc Đo Sư.” - “Này sư đệ, sự tranh tụng này đã được kết thúc, đã được yên lặng, đã được giải quyết, đã được giải quyết tốt đp. Này sư đ, tuy nhiên sư đệ nên hỏi ta về mười sự việc này ở ngay giữa hội chúng để các tỳ khưu ấy cùng nhau hiểu rõ.”

Sau đó, đi đc Revata đã hỏi đi đc Sabbakāmi v mười sự việc ấy ở ngay giữa hội chúng. Mỗi khi được hỏi, đi đc Sabbakāmi đã trả lời. Trong cuộc kết tập về Luật này đã hiện diện bảy trăm vị tỳ khưu không thiếu không dư. Do đó, cuộc kết tập về Luật này được gọi là ‘Liên quan bảy trăm vị.’”

Chương Liên Quan By Trăm Vị.

*****

Trong chương này có hai mươi lăm sự việc.

Tóm lưc chương này

ời sự việc, sau khi đ đầy, hành sự, cùng với sứ giả, vị đã đi vào, bốn (vật làm ô nhiễm), còn nữa, và vàng, Kosambi, và vị ở Pāvā.

Đưng đi, Soreyya, Saṅkassa, Kaṇṇakujja, Udumbara, Aggaḷa, và Sahajāti, v đã nghe, người nào mà chúng ta?

Bình bát, bằng thuyền, đã đi ngược giòng, vị ở nơi thanh vng, dâng đến, vị thầy, và hội chúng, thành Vesāli, tâm từ, hội chúng, các đại biểu.”

*****

Hành sự, và hình phạt parivāsa, tích lũy (tội), và luôn cả dàn xếp, các tiểu sự, và sàng tọa, chia rẽ (hội chúng), phận sự, (đình chỉ) lễ Uposatha, tỳ khưu ni, năm trăm, by trăm, là các chương ở Tiểu Phẩm.

[i hai chương đã đưc đề cập đến]

TIỂU PHẨM ĐƯỢC CHẤM DỨT.

--ooOoo--

[3] Mười sự việc này có ý nghĩa như sau: Được phép cất giữ muối trong ống sừng, đưc phép ăn khi bóng mặt trời đã hai ngón tay, đưc phép đi vào làng ri ăn thêm lần nữa, được phép hành lễ Uposathariêng rẽ, được phép hành sự không đủ tỳ khưu, được phép thực hành theo tập quán, được phép uống sữa chua lúc quá ngọ, được phép uống nưc trái cây lên men, được phép sử dụng vật lót ngồi không có viền quanh, được phép tích trữ vàng bạc (ND).

[4] Điều học pācittiya 38. 

[5] Điều học pācittiya 37.

[6] Điều học pācittiya 35.

[7] Điều học pācittiya 35.

[8] Điều học pācittiya 51.

[9] Điều học pācittiya 89.

[10] Điều học nissaggiya pācittiya 18.



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada