Vào lúc bấy giờ, khi đức Thế Tôn Vô Dư Niết Bàn được một trăm năm, các tỳ khưu dòng dõi Vajji ở Vesāli truyền bá trong thành Vesāli mười sự việc là: “Quy định cất giữ muối trong ống sừng là được phép, quy định hai ngón tay là được phép, quy định trong làng là được phép, quy định về chỗ trú ngụ là được phép, quy định về sự thỏa thuận là được phép, quy định theo tập quán là được phép, quy định chưa được khuấy là được phép, quy định uống nước trái cây lên men là được phép, quy định vật lót ngồi không có viền quanh là được phép, vàng bạc là được phép.”[3]
Vào lúc bấy giờ, đại đức Yasa con trai của Kākaṇḍaka trong khi du hành ở xứ Vajji đã đến trú tại Vesāli. Tại nơi đó ở Vesāli, đại đức Yasa con trai của Kākaṇḍaka đã trú tại Mahāvana, nơi giảng đường Kūṭāgāra. Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu dòng dõi Vajji ở Vesāli vào ngày Uposatha sau khi đổ đầy nước vào cái chậu đồng rồi đặt ở giữa hội chúng tỳ khưu và nói với các cư sĩ ở Vesāli đang đi qua lại như vầy: - “Này các đạo hữu, hãy bố thí đến hội chúng một kahāpaṇa, một nửa (kahāpaṇa), một pāda, một māsaka. Hội chúng sẽ có việc phải làm về vật dụng.” Khi được nói như vậy, đại đức Yasa con trai của Kākaṇḍaka đã nói với các cư sĩ ở Vesāli điều này: - “Này các đạo hữu, chớ có bố thí đến hội chúng một kahāpaṇa, một nửa (kahāpaṇa), một pāda, một māsaka. Vàng bạc không được cho phép đối với các Sa-môn Thích tử; các Sa-môn Thích tử không thích thú vàng bạc; các Sa-môn Thích tử không thọ nhận vàng bạc; các Sa-môn Thích tử đã từ bỏ ngọc ma-ṇi và vàng ròng, đã xa lìa vàng bạc.”
Trong khi được đại đức Yasa con trai của Kākaṇḍaka nói như vậy, các cư sĩ ở Vesāli vẫn bố thí đến hội chúng một kahāpaṇa, một nửa (kahāpaṇa), một pāda, một māsaka. Sau đó, vào cuối đêm ấy các tỳ khưu dòng dõi Vajji ở Vesāli đã xác định phần chia tùy theo số lượng tỳ khưu rồi đã phân chia số tiền vàng ấy.
Khi ấy, các tỳ khưu dòng dõi Vajji ở Vesāli đã nói với đại đức Yasa con trai của Kākaṇḍaka điều này: - “Này đại đức Yasa, phần chia tiền vàng này thuộc về đại đức.” - “Này các đại đức, phần chia tiền vàng này không thuộc về tôi, tôi không thích thú tiền vàng.”
Sau đó, các tỳ khưu dòng dõi Vajji ở Vesāli (bàn bạc rằng): “Này các đại đức, đại đức Yasa con trai của Kākaṇḍaka này quở trách, chê bai, làm giảm đức tin các cư sĩ có niềm tin đã mộ đạo, vậy chúng ta hãy thực hiện hành sự hòa giải đến vị ấy.” Họ đã thực hiện hành sự hòa giải đến vị ấy. Khi ấy, đại đức Yasa con trai của Kākaṇḍaka đã nói với các tỳ khưu dòng dõi Vajji ở Vesāli điều này: - “Này các đại đức, đức Thế Tôn đã quy định rằng: ‘Vị sứ giả cùng đi nên được ban đến vị tỳ khưu thực hiện hành sự hòa giải.’ Này các đại đức, hãy cho tôi vị tỳ khưu làm sứ giả cùng đi.” Khi ấy, các tỳ khưu dòng dõi Vajji ở Vesāli đã chỉ định một vị tỳ khưu và cho làm sứ giả cùng đi với đại đức Yasa con trai của Kākaṇḍaka.
Sau đó, đại đức Yasa con trai của Kākaṇḍaka cùng với vị tỳ khưu là sứ giả cùng đi đã vào thành Vesāli và đã nói với các cư sĩ ở Vesāli điều này: - “Nghe nói tôi quở trách, chê bai, làm giảm đức tin quý vị là những cư sĩ có niềm tin đã mộ đạo (trong việc) tôi đây nói phi Pháp là: ‘Phi Pháp,’ Pháp là: ‘Pháp,’ phi Luật là: ‘Phi Luật,’ Luật là: ‘Luật.’’
Này các đạo hữu, vào một thuở nọ, đức Thế Tôn ngự tại thành Sāvatthi, Jetavana, tu viện của ông Anāthapiṇḍika. Này các đạo hữu, ở nơi ấy, đức Thế Tôn đã bảo các tỳ khưu rằng: - ‘Này các tỳ khưu, đây là bốn vật làm ô nhiễm đối với mặt trăng và mặt trời. Khi bị ô nhiễm bởi những vật làm ô nhiễm này, mặt trăng và mặt trời không còn cháy sáng, không còn rực rỡ, không còn chói lọi. Bốn vật ấy là gì? Này các tỳ khưu, mây là vật làm ô nhiễm đối với mặt trăng và mặt trời. Khi bị ô nhiễm bởi vật làm ô nhiễm này, mặt trăng và mặt trời không còn cháy sáng, không còn rực rỡ, không còn chói lọi. Này các tỳ khưu, sương mù là vật làm ô nhiễm đối với mặt trăng và mặt trời. ―(như trên)― Này các tỳ khưu, khói bụi là vật làm ô nhiễm đối với mặt trăng và mặt trời. ―(như trên)― Này các tỳ khưu, Rāhu chúa loài Asura (hiện tượng nguyệt và nhật thực) là vật làm ô nhiễm đối với mặt trăng và mặt trời. Này các tỳ khưu, đây là bốn vật làm ô nhiễm đối với mặt trăng và mặt trời. Khi bị ô nhiễm bởi những vật làm ô nhiễm này, mặt trăng và mặt trời không còn cháy sáng, không còn rực rỡ, không còn chói lọi.
Này các tỳ khưu, tương tợ y như thế đây là bốn điều làm ô nhiễm đối với Sa-môn và Bà-la-môn. Khi bị ô nhiễm bởi những điều làm ô nhiễm này, các Sa-môn và Bà-la-môn không còn cháy sáng, không còn rực rỡ, không còn chói lọi. Bốn điều ấy là gì? Này các tỳ khưu, có những Sa-môn và Bà-la-môn uống rượu, uống men say, không chừa bỏ việc uống rượu và men say. Này các tỳ khưu, đây là điều làm ô nhiễm thứ nhất đối với Sa-môn và Bà-la-môn. Khi bị ô nhiễm bởi điều làm ô nhiễm này, các Sa-môn và Bà-la-môn không còn cháy sáng, không còn rực rỡ, không còn chói lọi.
Này các tỳ khưu, còn có điều khác nữa, có những Sa-môn và Bà-la-môn thực hiện việc đôi lứa, không chừa bỏ việc đôi lứa. Này các tỳ khưu, đây là điều làm ô nhiễm thứ nhì đối với Sa-môn và Bà-la-môn. ―(như trên)―
Này các tỳ khưu, còn có điều khác nữa, có những Sa-môn và Bà-la-môn thích thú vàng bạc, không chừa bỏ việc thọ nhận vàng bạc. Này các tỳ khưu, đây là điều làm ô nhiễm thứ ba đối với Sa-môn và Bà-la-môn. ―(như trên)―
Này các tỳ khưu, còn có điều khác nữa, có những Sa-môn và Bà-la-môn chấp nhận cuộc sống bằng sự nuôi mạng không chân chánh, không chừa bỏ sự nuôi mạng không chân chánh. Này các tỳ khưu, đây là điều làm ô nhiễm thứ tư đối với Sa-môn và Bà-la-môn. ―(như trên)―
Này các tỳ khưu, đây là bốn điều làm ô nhiễm đối với Sa-môn và Bà-la-môn. Khi bị ô nhiễm bởi những điều làm ô nhiễm này, các Sa-môn và Bà-la-môn không còn cháy sáng, không còn rực rỡ, không còn chói lọi.’ Này các đạo hữu, đức Thế Tôn đã nói điều ấy, đấng Thiện Thệ đã nói điều ấy, rồi bậc Đạo Sư còn nói thêm điều này nữa:
‘Có những Sa-môn và Bà-la-môn bị ô nhiễm bởi ái dục và sân, là những người bị che áng bởi vô minh, có sự thỏa thích ở các hình dáng đáng yêu.
Họ uống rượu, men say, theo đuổi việc đôi lứa, thích thú bạc và vàng, họ là những kẻ ngu si tăm tối.
Có những Sa-môn và Bà-la-môn sống bằng tà mạng. Những sự ô nhiễm này đã được nói lên bởi đức Phật, là vị thân quyến của mặt trời.
Những Sa-môn và Bà-la-môn đã bị ô nhiễm bởi những ô nhiễm ấy thì không còn cháy sáng, không còn rực rỡ, không còn chói lọi, không trong sạch, có nhiễm bụi, như là loài thú.
Bị bao phủ bởi bóng đêm, họ là những nô lệ của tham ái, là những kẻ bị (tham ái) dẫn đi, họ làm tăng trưởng nghĩa địa kinh hoàng, họ bám lấy sự tái sanh lần nữa.’
Có lời nói như vầy: Nghe nói tôi quở trách, chỉ trích, làm giảm đức tin quý vị là những cư sĩ có niềm tin, mộ đạo (trong việc) tôi đây nói phi Pháp là: ‘Phi Pháp,’ Pháp là: ‘Pháp,’ phi Luật là: ‘Phi Luật,’ Luật là: ‘Luật.’
Này các đạo hữu, vào một thuở nọ đức Thế Tôn ngự tại thành Rājagaha, Veḷuvana, nơi nuôi dưỡng các con sóc. Này các đạo hữu, vào lúc bấy giờ, trong lúc các hầu cận của đức vua ngồi lại tụ họp với nhau ở nơi hậu cung, có câu chuyện qua lại này đã sanh khởi: ‘Vàng bạc được cho phép đối với các Sa-môn Thích tử; các Sa-môn Thích tử thích thú vàng bạc; các Sa-môn Thích tử thọ nhận vàng bạc.’ Này các đạo hữu, vào lúc bấy giờ vị thôn trưởng Maṇicūḷaka đang ngồi trong nhóm người ấy.
Này các đạo hữu, khi ấy vị thôn trưởng Maṇicūḷaka đã nói với nhóm người ấy điều này: ‘Quý vị chớ có nói như thế. Vàng bạc không được cho phép đối với các Sa-môn Thích tử; các Sa-môn Thích tử không thích thú vàng bạc; các Sa-môn Thích tử không thọ nhận vàng bạc; các Sa-môn Thích tử đã từ bỏ ngọc ma-ṇi và vàng ròng, đã xa lìa vàng bạc.’ Này các đạo hữu, vị thôn trưởng Maṇicūḷaka đã có thể thuyết phục được nhóm người ấy.
Này các đạo hữu, sau đó, khi đã thuyết phục được nhóm người ấy vị thôn trưởng Maṇicūḷaka đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Này các đạo hữu, khi đã ngồi xuống một bên vị thôn trưởng Maṇicūḷaka đã nói với đức Thế Tôn điều này: - “Bạch ngài, ở đây trong lúc các hầu cận của đức vua ngồi lại tụ họp với nhau ở nơi hậu cung, có câu chuyện qua lại này đã sanh khởi: ‘Vàng bạc được cho phép đối với các Sa-môn Thích tử; các Sa-môn Thích tử thích thú vàng bạc; các Sa-môn Thích tử thọ nhận vàng bạc.’ Bạch ngài, được nói như vậy, con đã nói với nhóm người ấy điều này: ‘Quý vị chớ có nói như thế. Vàng bạc không được cho phép đối với các Sa-môn Thích tử; các Sa-môn Thích tử không thích thú vàng bạc; các Sa-môn Thích tử không thọ nhận vàng bạc; các Sa-môn Thích tử đã từ bỏ ngọc ma-ni và vàng ròng, đã xa lìa vàng bạc.’ Bạch ngài, con đã có thể thuyết phục được nhóm người ấy. Bạch ngài, trong khi nói như thế, có phải con là người đã nói đúng lời của đức Thế Tôn và con không vu khống đức Thế Tôn một cách sai trái? Có phải con đã nói theo lý lẽ của Giáo Pháp? Và có phải người nào có lời nói hợp với giáo lý, đúng theo Giáo Pháp, không rơi vào vị thế bị chê trách?”
- “Này Thôn trưởng, đúng vậy. Trong khi nói như thế, ngươi là người đã nói đúng lời của ta và ngươi không vu khống ta một cách sai trái. Ngươi đã nói theo lý lẽ của Giáo Pháp và người nào có lời nói hợp với giáo lý, đúng theo Giáo Pháp, không rơi vào vị thế đáng bị chê trách. Này Thôn trưởng, bởi vì vàng bạc không được cho phép đối với các Sa-môn Thích tử, các Sa-môn Thích tử không thích thú vàng bạc, các Sa-môn Thích tử không thọ nhận vàng bạc, các Sa-môn Thích tử đã từ bỏ ngọc ma-ni và vàng ròng, đã xa lìa vàng bạc. Này Thôn trưởng, đối với kẻ nào vàng bạc là được phép thì đối với kẻ ấy năm phần dục lạc cũng là được phép. Này Thôn trưởng, đối với kẻ nào năm phần dục lạc là được phép thì ngươi có thể nắm chắc về điều này là: ‘Không phải là pháp của Sa-môn, không phải là pháp của Thích tử.’ Này Thôn trưởng, và ta còn nói như vầy: Người mong muốn cỏ thì tầm cầu cỏ, người mong muốn củi thì tầm cầu củi, người mong muốn xe cộ thì tầm cầu xe cộ, người mong muốn đàn ông thì tầm cầu đàn ông. Này Thôn trưởng, nhưng ta không có nói rằng: ‘Bằng bất cứ phương tiện gì, vàng bạc nên được thích thú, nên được tầm cầu.’
Có lời nói như vầy: Nghe nói tôi quở trách, chỉ trích, làm giảm đức tin quý vị là những cư sĩ có niềm tin, mộ đạo (trong việc) tôi đây nói phi Pháp là: ‘Phi Pháp,’ Pháp là: ‘Pháp,’ phi Luật là: ‘Phi Luật,’ Luật là: ‘Luật.’
Này các đạo hữu, vào một thuở nọ, ở ngay chính nơi ấy tại thành Rājagaha đức Thế Tôn đã từ chối vàng bạc và quy định điều học có liên quan đến đại đức Upananda dòng dõi Sakya. Có lời nói như vầy: “Nghe nói tôi quở trách, chỉ trích, làm giảm đức tin quý vị là những cư sĩ có niềm tin, mộ đạo (trong việc) tôi đây nói phi Pháp là: ‘Phi Pháp,’ Pháp là: ‘Pháp,’ phi Luật là: ‘Phi Luật,’ Luật là: ‘Luật.’” Khi được nói như thế, các cư sĩ ở Vesāli đã nói với đại đức Yasa con trai của Kākaṇḍaka điều này: - “Thưa ngài, chỉ có một mình ngài đại đức Yasa con trai của Kākaṇḍaka là Sa-môn Thích tử, chính tất cả các vị kia đều không phải là Sa-môn, không phải là Thích tử. Thưa ngài, xin ngài đại đức Yasa con trai của Kākaṇḍaka hãy ngụ tại Vesāli. Chúng tôi sẽ nỗ lực về vật dụng là y phục, đồ ăn khất thực, chỗ trú ngụ, và thuốc men chữa bệnh đối với ngài đại đức Yasa con trai của Kākaṇḍaka.” Sau đó, khi đã khiến cho các cư sĩ ở Vesāli nhận thức được, đại đức Yasa con trai của Kākaṇḍaka với vị tỳ khưu sứ giả cùng đi đã trở về tu viện.
Sau đó, các tỳ khưu dòng dõi Vajji ở Vesāli đã hỏi vị tỳ khưu sứ giả cùng đi rằng: - “Này sư đệ, đại đức Yasa con trai của Kākaṇḍaka đã yêu cầu các cư sĩ ở Vesāli thứ lỗi chưa vậy?” - “Chúng ta gặp điều xúi quẩy với các cư sĩ rồi. Chỉ một mình Yasa con trai của Kākaṇḍaka được xem là Sa-môn Thích tử. Còn chính tất cả chúng ta đã bị xem không phải là Sa-môn, không phải là Thích tử.”
Khi ấy, các tỳ khưu dòng dõi Vajji ở Vesāli (đã bàn bạc rằng): “Này các đại đức, Yasa con trai của Kākaṇḍaka này chưa được chúng ta chỉ định đã giảng giải cho hàng tại gia, vậy chúng ta hãy thực hiện hành sự án treo đối với vị ấy.” Họ đã tụ họp lại với ý định thực hiện hành sự án treo đối với vị ấy. Khi ấy, đại đức Yasa con trai của Kākaṇḍaka đã bay lên không trung và xuất hiện ở Kosambi. Sau đó, đại đức Yasa con trai của Kākaṇḍaka đã phái sứ giả đi đến gặp các tỳ khưu ở Pāvā, Avanti, và khu vực phía nam (nói rằng): “Xin các đại đức hãy đến, chúng ta cần nắm lấy sự tranh tụng này trước khi điều phi Pháp phát triển và Pháp bị bỏ quên, trước khi điều phi Luật phát triển và Luật bị bỏ quên, trước khi những kẻ nói về phi Pháp trở nên mạnh và những người nói về Pháp yếu đi, trước khi những kẻ nói về phi Luật trở nên mạnh và những người nói về Luật yếu đi.” Vào lúc bấy giờ, đại đức Sambhūta Sāṇavāsī đang ngụ tại núi Ahogaṅga. Khi ấy, đại đức Yasa con trai của Kākaṇḍaka đã đi đến núi Ahogaṅga gặp đại đức Sambhūta Sāṇavāsī, sau khi đến đã đảnh lễ đại đức Sambhūta Sāṇavāsī rồi ngồi xuống một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, đại đức Yasa con trai của Kākaṇḍaka đã nói với đại đức Sambhūta Sāṇavāsī điều này:
- “Thưa ngài, các tỳ khưu dòng dõi Vajji này ở Vesāli truyền bá trong thành Vesāli mười sự việc: ‘Quy định cất giữ muối trong ống sừng là được phép, quy định hai ngón tay là được phép, quy định trong làng là được phép, quy định về chỗ trú ngụ là được phép, quy định về sự thỏa thuận là được phép, quy định theo tập quán là được phép, quy định chưa được khuấy là được phép, quy định uống nước trái cây lên men là được phép, quy định vật lót ngồi không có viền quanh là được phép, vàng bạc là được phép.’ Thưa ngài, vậy chúng ta sẽ nắm lấy sự tranh tụng này trước khi điều phi Pháp phát triển và Pháp bị bỏ quên, trước khi điều phi Luật phát triển và Luật bị bỏ quên, trước khi những kẻ nói về phi Pháp trở nên mạnh và những người nói về Pháp yếu đi, trước khi những kẻ nói về phi Luật trở nên mạnh và những người nói về Luật yếu đi.” - “Này đại đức, đúng vậy.” Đại đức Sambhūta Sāṇavāsī đã trả lời đại đức Yasa con trai của Kākaṇḍaka.
Sau đó, các tỳ khưu ở Pāvā có số lượng sáu mươi vị tất cả là những vị sống trong rừng, tất cả là những vị hành hạnh khất thực, tất cả là những vị mặc y (may bằng) vải bị quăng bỏ, tất cả là những vị chỉ sử dụng ba y, chính tất cả các vị đều là A-la-hán đã tụ hội ở núi Ahogaṅga. Các tỳ khưu ở Avanti và khu vực phía nam có số lượng tám mươi tám vị, một số vị sống trong rừng, một số vị hành hạnh khất thực, một số vị mặc y (may bằng) vải bị quăng bỏ, một số vị chỉ sử dụng ba y, chính tất cả các vị đều là A-la-hán đã tụ hội ở núi Ahogaṅga.
Khi ấy, trong lúc các tỳ khưu trưởng lão hội ý, điều này đã khởi lên: “Tranh sự này quả là khó khăn và tế nhị. Làm thế nào chúng ta có thể đạt được nhóm, nhờ thế trong sự tranh tụng này chúng ta sẽ là lực lượng mạnh hơn?” Vào lúc bấy giờ, đại đức Revata ngụ tại Soreyya là vị nghe nhiều, kinh điển được truyền thừa, rành rẽ về Pháp, rành rẽ về Luật, rành rẽ về các đầu đề, là bậc sáng trí, kinh nghiệm, thông minh, khiêm nhường, có hối hận, ưa thích sự học tập. Khi ấy, các tỳ khưu trưởng lão đã khởi ý rằng: “Chính vị đại đức Revata này ngụ tại Soreyya là vị nghe nhiều, kinh điển được truyền thừa, rành rẽ về Pháp, rành rẽ về Luật, rành rẽ về các đầu đề, là bậc sáng trí, kinh nghiệm, thông minh, khiêm nhường, có hối hận, ưa thích sự học tập. Nếu chúng ta sẽ đạt được đại đức Revata chung nhóm, như thế trong sự tranh tụng này chúng ta sẽ là lực lượng mạnh hơn.”
Trong khi các tỳ khưu trưởng lão đang hội ý, đại đức Revata nhờ vào Thiên nhĩ thông thanh tịnh vượt trội loài người đã nghe được, sau khi nghe được đã khởi ý điều này: “Tranh sự này quả là khó khăn và tế nhị. Điều không thích đáng cho ta là việc ta lại tránh né các sự tranh tụng như thế này. Và rồi đây, các vị tỳ khưu ấy sẽ đi đến, bị lấn cấn bởi các vị ấy, ta đây sẽ đi không thoải mái. Hay là ta nên đi trước?” Khi ấy, đại đức Revata từ Soreyya đã đi đến Saṅkassa.
Sau đó, các vị tỳ khưu trưởng lão đã đi đến Soreyya hỏi rằng: - “Đại đức Revata ở đâu?” Các người ấy đã nói như vầy: - “Vị đại đức Revata ấy đã đi Saṅkassa rồi.” Rồi đại đức Revata từ Saṅkassa đã đi Kaṇṇakujja. Sau đó, các tỳ khưu trưởng lão đã đi đến Saṅkassa hỏi rằng: - “Đại đức Revata ở đâu?” Các người ấy đã nói như vầy: - “Vị đại đức Revata ấy đã đi Kaṇṇakujja rồi.” Rồi đại đức Revata từ Kaṇṇakujja đã đi Udumbara. Sau đó, các tỳ khưu trưởng lão đã đi đến Kaṇṇakujja hỏi rằng: - “Đại đức Revata ở đâu?” Các người ấy đã nói như vầy: - “Vị đại đức Revata ấy đã đi Udumbara rồi.” Rồi đại đức Revata từ Udumbara đã đi thành phố Aggaḷa. Sau đó, các tỳ khưu trưởng lão đã đi đến Udumbara hỏi rằng: - “Đại đức Revata ở đâu?” Các người ấy đã nói như vầy: - “Vị đại đức Revata ấy đã đi thành phố Aggaḷa rồi.” Rồi đại đức Revata từ thành phố Aggaḷa đã đi Sahajāti. Sau đó, các tỳ khưu trưởng lão đã đi đến thành phố Aggaḷa hỏi rằng: - “Đại đức Revata ở đâu?” Các người ấy đã nói như vầy: - “Vị đại đức Revata ấy đã đi Sahajāti rồi.” Rồi các tỳ khưu trưởng lão đã gặp được đại đức Revata ở Sahajāti.
Khi ấy, đại đức Sambhūta Sāṇavāsī đã nói với đại đức Yasa con trai của Kākaṇḍaka điều này: - “Này sư đệ, đại đức Revata này là vị nghe nhiều, kinh điển được truyền thừa, rành rẽ về Pháp, rành rẽ về Luật, rành rẽ về các đầu đề, là bậc sáng trí, kinh nghiệm, thông minh, khiêm nhường, có hối hận, ưa thích sự học tập. Nếu chúng ta hỏi đại đức Revata câu hỏi, đại đức Revata có khả năng trình bày trọn đêm chỉ với một câu hỏi ấy. Và giờ đây, đại đức Revata sẽ gọi vị tỳ khưu đệ tử chuyên đọc tụng về âm từ. Khi chấm dứt phần đọc tụng về âm từ của vị tỳ khưu ấy, chính sư đệ nên đi đến gặp đại đức Revata và hỏi về mười sự việc ấy.”
- “Thưa ngài, xin vâng.” Đại đức Yasa con trai của Kākaṇḍaka đã trả lời đại đức Sambhūta Sāṇavāsī. Khi ấy, đại đức Revata đã gọi vị tỳ khưu đệ tử chuyên đọc tụng về âm từ. Vào lúc chấm dứt phần đọc tụng về âm từ của vị tỳ khưu ấy, khi ấy đại đức Yasa con trai của Kākaṇḍaka đã đi đến gặp đại đức Revata, sau khi đến đã đảnh lễ đại đức Revata rồi ngồi xuống một bên. Khi đã ngồi xuống một bên, đại đức Yasa con trai của Kākaṇḍaka đã nói với đại đức Revata điều này:
i. - “Thưa ngài, quy định cất giữ muối trong ống sừng là được phép?” - “Này sư đệ, quy định cất giữ muối trong ống sừng ấy là gì?” - “Thưa ngài, là mang theo muối bằng ống sừng (nghĩ rằng): ‘Ta sẽ thọ dụng vào trường hợp (thức ăn) thiếu muối,’ có được phép không?” - “Này sư đệ, không được phép.”
- “Thưa ngài, quy định hai ngón tay là được phép?” - “Này sư đệ, quy định hai ngón tay ấy là gì?” - “Thưa ngài, là thọ dụng vật thực sái giờ khi bóng nắng mặt trời (chiếu ở trên đất) đã quá hai ngón tay, có được phép không?” - “Này sư đệ, không được phép.”
iii. - “Thưa ngài, quy định trong làng là được phép?” - “Này sư đệ, quy định trong làng ấy là gì?” - “Thưa ngài, là vị đã ăn xong, đã ngăn vật thực (nghĩ rằng): ‘Bây giờ, ta sẽ đi vào trong làng’ rồi thọ dụng thức ăn không phải là còn thừa lại (từ bữa ăn), có được phép không?” - “Này sư đệ, không được phép.”
- “Thưa ngài, quy định về chỗ trú ngụ là được phép?” - “Này sư đệ, quy định về chỗ trú ngụ ấy là gì?” - “Thưa ngài, là nhiều trú xứ có chung ranh giới thực hiện lễ Uposatha riêng biệt, có được phép không?” - “Này sư đệ, không được phép.”
- “Thưa ngài, quy định về sự thỏa thuận là được phép?” - “Này sư đệ, quy định về sự thỏa thuận ấy là gì?” - “Thưa ngài là thực hiện hành sự với hội chúng không đủ số lượng (nghĩ rằng): ‘Chúng ta sẽ thuyết phục các tỳ khưu đi đến,’ có được phép không?” - “Này sư đệ, không được phép.”
- “Thưa ngài, quy định theo tập quán là được phép?” - “Này sư đệ, quy định theo tập quán ấy là gì?” - “Thưa ngài là (vị nghĩ rằng): ‘Điều này đã được thực hành bởi thầy tế độ của ta, điều này đã được thực hành bởi thầy giáo thọ của ta’ rồi thực hành theo, có được phép không?” - “Này sư đệ, quy định theo tập quán có điều được phép, có điều không được phép.”
vii. - “Thưa ngài, quy định chưa được khuấy là được phép?” - “Này sư đệ, quy định chưa được khuấy ấy là gì?” - “Thưa ngài, có loại sữa đã qua khỏi trạng thái sữa nhưng chưa đạt đến trạng thái sữa đông, vị đã ăn xong, đã ngăn vật thực, uống loại sữa ấy không phải là còn thừa lại (từ bữa ăn), có được phép không?” - “Này sư đệ, không được phép.”
viii. - “Thưa ngài, quy định uống nước trái cây lên men là được phép?” - “Này sư đệ, nước trái cây lên men ấy là gì?” - “Thưa ngài, là loại rượu vừa mới lên men nhưng chưa đạt đến trạng thái rượu mạnh, uống loại ấy có được phép không?” - “Này sư đệ, không được phép.”
- “Thưa ngài, quy định vật lót ngồi không có viền quanh là được phép?” - “Này sư đệ, không được phép.”
- “Thưa ngài, vàng bạc là được phép?” - “Này sư đệ, không được phép.”
- “Thưa ngài, các tỳ khưu dòng dõi Vajji ấy ở Vesāli truyền bá trong thành Vesāli mười sự việc này. Thưa ngài, chúng ta hãy nắm lấy sự tranh tụng này trước khi điều phi Pháp phát triển và Pháp bị bỏ quên, trước khi điều phi Luật phát triển và Luật bị bỏ quên, trước khi những kẻ nói về phi Pháp trở nên mạnh và những người nói về Pháp yếu đi, trước khi những kẻ nói về phi Luật trở nên mạnh và những người nói về Luật yếu đi.” - “Này sư đệ, đúng vậy.” Đại đức Revata đã trả lời đại đức Yasa con trai của Kākaṇḍaka.
Dứt tụng phẩm thứ nhất.
*****
Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada