Khi ấy, đi đc Mahākassapa đã bảo các tỳ khưu rng: - “Này các sư đệ, vào lúc ấy ta đang thực hiện cuộc hành trình đường xa từ Pāvā đi Kusinārā cùng với đại chúng tỳ khưu có s lưng năm trăm vị tỳ khưu. Này các sư đệ, khi ấy ta đã rời đường lộ rồi ngồi xuống ở gốc cây nọ. Vào lúc bấy giờ, có đạo sĩ lõa thể nọ sau khi nhận được bông hoa Mandārava  Kusinārā đang thực hiện cuộc hành trình đưng xa đi Pāvā. Này các sư đ, ta đã nhìn thấy vị đạo sĩ lõa thể ấy đang đi lại từ đàng xa, sau khi nhìn thấy ta đã nói với vị đạo sĩ lõa thể ấy điu này: ‘Này đạo hữu, đạo hữu có biết bậc Đo Sư của chúng tôi không?’ ‘Ồ đạo hữu, đúng vậy, tôi có biết. Hôm nay Sa-môn Gotama đã Vô Dư Niết Bàn được bảy ngày rồi. Do đó, tôi mi có được bông hoa Mandārava này.’

Này các sư đệ, tại nơi ấy những tỳ khưu nào chưa đoạn tận ái dục, một số các vị đưa tay lên khóc than. Như thân cây b đốn gãy, các vị ngã xuống lăn qua lăn lại (than rằng): “Đức Thế Tôn Vô Dư Niết Bàn quá sớm, đấng Thiện Thệ Vô Dư Niết Bàn quá sớm, bậc Hữu Nhãn biến mất ở thế gian quá sớm.” Còn những tỳ khưu nào có ái dc đã đưc đoạn tận, các vị ấy có niệm, có sự tỉnh giác thời chấp nhận: “Các Pháp hữu vi là vô thường, bởi vì điều ấy có thể xảy ra ở đây.” Này các sư đệ, khi ấy ta đã nói với các tỳ khưu điu này: “Này các sư đ, thôi đi! Chớ có buồn rầu, chớ có than vãn nữa. Này các sư đệ, không phải điều ấy đã đưc đức Thế Tôn khuyến cáo là ngay với tất cả các vật thân yêu vừa ý đều có bản chất đa dạng, có bản chất không thật, có bản chất thay đi? Này các sư đệ, bởi vì điều ấy có thể xảy ra ở đây, nghĩa là vật gì được sanh lên, tồn tại, rồi bị biến đổi thuận theo pháp thế gian, (nếu nghĩ rằng): ‘Mong sao vật ấy chớ có bị hư hoại,’ sự kiện này không thể có được!”

Này các sư đệ, vào lúc bấy giờ có vị xuất gia lúc đã già tên Subhadda đang ngồi trong tập thể ấy. Này các sư đệ, khi ấy vị xuất gia lúc đã già Subhadda đã nói với các tỳ khưu y điều này: “Này các vị, thôi đi! Chớ có buồn rầu, chớ có than vãn nữa. Chúng ta được hoàn toàn thoát khỏi vị đại Sa-môn ấy rồi. Và chúng ta đã bị làm khó khăn rng: ‘Điu này đưc phép cho các ngươi, điu này không đưc phép cho các ngươi.’ Gi đây, điều gì chúng ta thích chúng ta sẽ làm điều ấy, điều gì chúng ta không thích chúng ta sẽ không làm điều ấy.”

Này các sư đệ, vậy chúng ta hãy trùng tụng Pháp và Luật trưc khi điều phi Pháp phát triển và Pháp bị bỏ quên, trưc khi điều phi Luật phát triển và Luật bị bỏ quên, trước khi những kẻ nói về phi Pháp trở nên mạnh và những người nói về Pháp yếu đi, trước khi những kẻ nói về phi Luật trở nên mạnh và những người nói về Luật yếu đi.”

- “Thưa ngài, chính vì điều ấy xin vị trưởng lão hãy tuyển chọn các tỳ khưu.” Khi y, đi đc Mahākassapa đã tuyển chọn bốn trăm chín mươi chín vị A-la-hán. Các vị tỳ khưu đã nói với đi đc Mahākassapa điu này: - “Thưa ngài, v đi đc Ānanda này tuy còn là bậc Hữu Học nhưng không thể nào bị chi phối bởi tham, bởi sân, bởi si mê, bởi sợ hãi. Và vị này thuộc lòng nhiều Pháp và Luật từ đức Thế Tôn. Thưa ngài, chính vì điều ấy xin vị trưởng lão hãy tuyển chọn luôn cả đi đc Ānanda.”

Khi ấy, đi đc Mahākassapa đã tuyển chọn luôn cả đi đc Ānanda. Sau đó, các vị tỳ khưu trưởng lão đã khởi ý điều này: - “Vậy chúng ta có thể trùng tụng Pháp và Luật ở nơi nào?” Khi ấy, các vị tỳ khưu trưởng lão đã khởi ý điều này: “Thành Rājagaha quả là có khu vực khất thực rộng lớn, có nhiều chỗ trú ngụ; hay là chúng ta nên trùng tụng Pháp và Luật trong khi an cư mùa mưa ở thành Rājagaha, các tỳ khưu khác không đưc đi đến an cư mùa mưa ở thành Rājagaha?” Sau đó, đi đc Mahākassapa đã thông báo đến hội chúng rằng: - “Này các sư đệ, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên chỉ đnh năm trăm vị tỳ khưu này để trùng tụng Pháp và Luật trong khi an cư mùa mưa ở thành Rājagaha, ‘các tỳ khưu khác không đưc an cư mùa mưa ở thành Rājagaha.’ Đây là li đề nghị.

Này các sư đệ, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Hội chúng chỉ đnh năm trăm vị tỳ khưu này để trùng tụng Pháp và Luật trong khi an cư mùa mưa ở thành Rājagaha, ‘các tỳ khưu khác không đưc an cư mùa mưa ở thành Rājagaha.’ V nào đồng ý việc chỉ đnh năm trăm vị tỳ khưu này để trùng tụng Pháp và Luật trong khi an cư mùa mưa ở thành Rājagaha, ‘các tỳ khưu khác không đưc an cư mùa mưa ở thành Rājagaha’ xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.

Năm trăm vị tỳ khưu này đã được hội chúng chỉ đnh để trùng tụng Pháp và Luật trong khi an cư mùa mưa ở thành Rājagaha, ‘các tỳ khưu khác không đưc an cư mùa mưa ở thành Rājagaha.’ Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng, tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”

Sau đó, các t khưu trưởng lão đã đi đến thành Rājagaha để trùng tụng Pháp và Luật. Khi ấy, các tỳ khưu trưởng lão đã bàn bạc điu này: - “Này các đi đức, việc sửa chữa chỗ bị hư hng đã đưc đức Thế Tôn khen ngợi. Này các đi đức, vậy vào tháng thứ nhất chúng ta hãy sửa chữa những nơi b hư hỏng; vào tháng giữa, chúng ta sẽ tụ họp lại rồi trùng tụng Pháp và Luật.” Sau đó vào tháng thứ nhất, các tỳ khưu trưởng lão đã sửa chữa chỗ bị hư hỏng. Khi ấy, đi đc Ānanda (nghĩ rằng): “Ngày mai là đại hội, việc ta sẽ đi đến đại hội khi còn là bậc Hữu Học thật là không thích đáng cho ta!” ri đã trải qua gần trọn đêm với niệm trú ở thân, và trong đêm vào lúc hừng sáng (mới khởi ý rằng): “Ta sẽ nằm xuống” rồi nghiêng thân hình. Và vào lúc đu chưa chạm gối, hai chân vừa mới giở lên khỏi mặt đất, và trong khoảng thời gian ấy tâm đã được giải thoát khỏi các lậu hoặc không còn chấp thủ. Sau đó, đi đc Ānanda đã đi đến đại hội, trong khi (đã) là vị A-la-hán.

Khi ấy, đi đức Mahākassapa đã thông báo đến hội chúng rằng: - “Này các sư đệ, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, tôi sẽ hỏi đi đc Upāli về Luật.” Đi đc Upāli cũng đã thông báo đến hội chúng rằng: - “Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, khi đưc đi đc Mahākassapa hỏi về Luật tôi sẽ trả lời.” Khi ấy, đi đc Mahākassapa đã hỏi đi đc Upāli điu này: - “Này sư đ Upāli, điều pārājika thứ nhất đã đưc quy định ở đâu?” - “Thưa ngài, ở Vesāli.” - “Liên quan đến ai?” - “Liên quan đến Sudinna con trai của Kalanda.” - “Về sự việc gì?” - “Về việc (thực hiện việc) đôi lứa.” Rồi đi đc Mahākassapa đã hỏi đi đc Upāli về câu chuyện, đã hỏi về nguyên do, đã hỏi về nhân sự, đã hỏi về sự quy đnh, đã hỏi về sự quy đnh thêm, đã hỏi về sự phạm tội, và đã hỏi về sự không phạm tội của điều pārājika thứ nhất.

- “Này sư đ Upāli, điều pārājika thứ nhì đã đưc quy định ở đâu?” - “Thưa ngài,  Rājagaha.” - “Liên quan đến ai?” - “Liên quan đến Dhaniya con trai người thợ đồ gốm.” - “Về sự việc gì?” - “Về việc lấy vật không được cho.” Rồi đi đc Mahākassapa đã hỏi đi đc Upāli về câu chuyện, đã hỏi về nguyên do, đã hỏi về nhân sự, đã hỏi về sự quy đnh, đã hỏi về sự quy đnh thêm, đã hỏi về sự phạm tội, và đã hỏi về sự không phạm tội của điềupārājika thứ nhì.

- “Này sư đ Upāli, điều pārājika thứ ba đã đưc quy định ở đâu?” - “Thưa ngài,  Vesāli.” - “Liên quan đến ai?” - “Liên quan đến nhiều vị tỳ khưu.” - “Về sự việc gì?” - “Về việc tưc đoạt mạng người.” Rồi đi đc Mahākassapa đã hỏi đi đc Upāli về câu chuyện, đã hỏi về nguyên do, đã hỏi về nhân sự, đã hỏi về sự quy đnh, đã hỏi về sự quy đnh thêm, đã hỏi về sự phạm tội, và đã hỏi về sự không phạm tội của điều pārājika thứ ba.

- “Này sư đ Upāli, điều pārājika thứ tư đã đưc quy định ở đâu?” - “Thưa ngài,  Vesāli.” - “Liên quan đến ai?” - “Liên quan đến các tỳ khưu ở bờ sông Vaggumudā.” - “Về sự việc gì?” - “Về pháp thượng nhân.” Rồi đi đc Mahākassapa đã hỏi đi đc Upāli về câu chuyện, đã hỏi về nguyên do, đã hỏi về nhân sự, đã hỏi về sự quy đnh, đã hỏi về sự quy đnh thêm, đã hỏi về sự phạm tội, và đã hỏi về sự không phạm tội của điều pārājika thứ tư. Bng chính phương thức ấy, (đi đc Mahākassapa) đã hỏi về phần Luật Phân Tích của cả hai phái (tỳ khưu và t khưu ni). Mi khi được hỏi, đi đc Upāli đã trả lời.

Sau đó, đi đc Mahākassapa đã thông báo đến hội chúng rằng: - “Này các sư đệ, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, tôi sẽ hỏi Ānanda về Pháp.” Khi ấy, đi đc Ānanda đã thông báo đến hội chúng rằng: - “Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, khi đưc đi đc Mahākassapa hỏi về Pháp tôi sẽ trả lời.” Rồi đi đc Mahākassapa đã hỏi đi đc Ānanda điu này: - “Này sư đ Ānanda, kinh Brahmajāla (Phạm Võng) đã được thuyết ở đâu?” - “Thưa ngài, ở nhà nghỉ của vua tại Ambalaṭṭhikā, ở khoảng giữa Rājagaha và Nālanda.” - “Liên quan đến ai?” - “Đến du sĩ ngoại đạo Suppiya và thanh niên Brahmadatta.” Rồi đi đc Mahākassapa đã hỏi đi đc Ānanda về duyên khởi, đã hỏi về nhân sự của kinh Brahmajāla.

- “Này sư đ Ānanda, kinh Sāmaññaphala (Sa-môn Quả) đã được thuyết ở đâu?” - “Thưa ngài,  Rājagaha nơi vườn xoài của Jīvaka.” - “Với ai?” - “Với Ajātasattu con trai của Videhi.” Rồi đi đc Mahākassapa đã hỏi đi đc Ānanda về duyên khởi, đã hỏi về nhân sự của kinh Sāmaññaphala. Bằng chính phương thức ấy, (đi đc Mahākassapa) đã hỏi về năm bộ Kinh. Mỗi khi được hỏi, đi đc Ānanda đã trả lời.

*****



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada