Thỉnh cầu tuyên đọc giới bổn Pātimokkha 

Lúc bấy giờ, đức Phật Thế Tôn ngự tại Sāvatthi, tu viện Pubba, ở tòa nhà dài của người mẹ của Migāra.[1] Vào lúc bấy giờ, nhằm ngày Uposatha, đức Thế Tôn đang ngi, được vây quanh bởi hội chúng tỳ khưu.

Khi ấy, lúc đêm đã khuya canh một đã tàn, đi đc Ānanda đã từ chỗ ngồi đứng dậy, đp thượng y một bên vai, chắp tay hướng về đức Thế Tôn, và đã nói với đức Thế Tôn điều này: - “Bạch ngài, đêm đã khuya canh một đã tàn, hội chúng tỳ khưu ngi đã lâu. Bạch ngài, xin đức Thế Tôn tuyên đọc giới bổn Pātimokkha cho các tỳ khưu.” Khi đưc nói như vy, đức Thế Tôn đã im lặng.

Đến lần thứ nhì, lúc đêm đã khuya canh giữa đã tàn, đi đc Ānanda đã từ chỗ ngồi đứng dậy, đp thượng y một bên vai, chắp tay lên hướng về đức Thế Tôn, và đã nói với đức Thế Tôn điều này: - “Bạch ngài, đêm đã khuya, canh giữa đã tàn, hội chúng tỳ khưu ngi đã lâu. Bạch ngài, xin đức Thế Tôn tuyên đọc giới bổn Pātimokkha cho các tỳ khưu.” Đến lần thứ nhì, đức Thế Tôn đã im lặng.

Đến lần thứ ba, lúc đêm đã khuya canh cuối đã tàn, bình minh đã rạng, trời đêm lộ vẻ rạng rỡ, đi đc Ānanda đã từ chỗ ngồi đứng dậy, đp thượng y một bên vai, chắp tay lên hướng về đức Thế Tôn, và đã nói với đức Thế Tôn điều này: - “Bạch ngài, đêm đã khuya canh cuối đã tàn, bình minh đã rạng, trời đêm lộ vẻ rạng rỡ, hội chúng tỳ khưu ngi đã lâu. Bạch ngài, xin đức Thế Tôn tuyên đọc giới bổn Pātimokkha cho các tỳ khưu.”

- “Này Ānanda, hội chúng không thanh tịnh.”

Khi ấy, đi đc Mahāmoggallāna đã khởi ý điu này: “Liên quan đến nhân vật nào khiến đức Thế Tôn đã nói như vầy: ‘Này Ānanda, hội chúng không thanh tịnh’?” Sau đó, đi đc Mahāmoggallāna đã tác ý dùng tâm biết được tâm của toàn thể hội chúng tỳ khưu. Đi đc Mahāmoggallāna đã nhìn thấy nhân vật ấy, kẻ có ác giới, có ác pháp, sở hành bất tịnh và đáng nghi ng, có hành động che giấu, không phải là Sa-môn, tự xưng là Sa-môn, không có Phạm hạnh, tự xưng là có Phạm hạnh, nội tâm thối nát, nhiễm dục vọng, có bản chất dơ bn, đang ngồi giữa hội chúng tỳ khưu.

Sau khi nhìn thấy đã đi đến gần nhân vật ấy, sau khi đến gần đã nói với nhân vật ấy điều này: - “Này ông bạn, hãy đứng dậy. Ngươi đã bị đức Thế Tôn nhìn thấy rồi. Việc cộng trú với các tỳ khưu là không có cho ngươi.” Đưc nói như vậy, nhân vật ấy đã im lặng.

Đến lần thứ nhì, đi đc Mahāmoggallāna đã nói với nhân vật ấy điều này: - “Này ông bạn, hãy đứng dậy. Ngươi đã bị đức Thế Tôn nhìn thấy rồi. Việc cộng trú với các tỳ khưu là không có cho ngươi.” Đến lần thứ nhì, nhân vật ấy đã im lặng.

Đến lần thứ ba, đi đc Mahāmoggallāna đã nói với nhân vật ấy điều này: - “Này ông bạn, hãy đứng dậy. Ngươi đã bị đức Thế Tôn nhìn thấy rồi. Việc cộng trú với các tỳ khưu là không có cho ngươi.” Đến lần thứ ba, nhân vật ấy đã im lặng.

Khi ấy, đi đc Mahāmoggallāna đã nắm lấy nhân vật ấy ở cánh tay đẩy ra bên ngoài cánh cửa của cổng ra vào, gài chốt cửa lại, rồi đã đi đến gặp đức Thế Tôn, sau khi đến đã nói với đức Thế Tôn điều này: - “Bạch ngài, nhân vật ấy đã bị con đẩy ra ngoài rồi; hội chúng được thanh tịnh. Bạch ngài, xin đức Thế Tôn tuyên đọc giới bổn Pātimokkha cho các tỳ khưu.”

- “Này Moggallāna, thật là kỳ lạ! Này Moggallāna thật là bất thường! Gã rồ dại ấy lại chờ đi cho đến lúc bị nắm lấy cánh tay.”

*****

Tám pháp kỳ diệu về biển cả 

Sau đó, đức Thế Tôn đã bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, đây là tám pháp kỳ diệu phi thường về biển cả, sau khi thường xuyên xem xét những pháp ấy các A-tu-la thỏa thích trong biển cả. Tám pháp ấy là gì?

Này các tỳ khưu, biển cả sâu xuống dần dần, có độ dốc xuống dần dần, có sự lõm xuống dần dần, không có vực sâu một cách đột ngột. Này các tỳ khưu, sự việc biển cả sâu xuống dần dần, có độ dốc xuống dần dần, có sự lõm xuống dần dần, không có vực sâu một cách đột ngột, này các tỳ khưu, đây là pháp kỳ diệu phi thường thứ nhất về biển cả, sau khi thường xuyên xem xét pháp ấy các A-tu-la thỏa thích trong biển cả.

Này các tỳ khưu, còn có điều này nữa, biển cả có pháp ổn định, không tràn qua khỏi bờ. Này các tỳ khưu, sự việc biển cả có pháp ổn định, không tràn qua khỏi bờ, này các tỳ khưu, đây là pháp kỳ diệu phi thường thứ nhì về biển cả, sau khi thường xuyên xem xét pháp ấy các A-tu-la thỏa thích trong biển cả.

Này các tỳ khưu, còn có điều này nữa, biển cả không sống chung với xác chết, nghĩa là khi ở trong biển cả có xác chết, nó tức thời đưa xác chết ấy vào bờ hoặc hất lên đất liền. Này các tỳ khưu, sự việc biển cả không sống chung với xác chết, nghĩa là khi ở trong biển cả có xác chết, nó tức thời đưa xác chết ấy vào bờ hoặc hất lên đất liền, này các tỳ khưu, đây là pháp kỳ diệu phi thường thứ ba về biển cả, ―(như trên)

Này các tỳ khưu, còn có điều này nữa, các con sông lớn như là Gagā, Yamunā, Aciravatī, Sarabhū, Mahī khi đã ra đến biển cả thì từ bỏ các tên họ trưc đây và đi đến tên gọi là ‘Biển cả.’ Này các tỳ khưu, sự việc các con sông lớn như là Gagā, ―(như trên)― và đi đến tên gọi là ‘Biển cả,’ này các tỳ khưu, đây là pháp kỳ diệu phi thường thứ tư về biển cả, ―(như trên)

Này các tỳ khưu, còn có điều này nữa, có các dòng nước ở trái đt đổ vào biển cả và các trận mưa t không trung rơi xung, nhưng không vì điều ấy mà biển cả đưc xem là vơi hay đầy. Này các tỳ khưu, sự việc có các dòng nước ở trái đt đổ vào biển cả và các trận mưa t không trung rơi xung nhưng không vì điều ấy mà biển cả đưc xem là vơi hay đầy, này các tỳ khưu, đây là pháp kỳ diệu phi thường thứ năm về biển cả, ―(như trên)

Này các tỳ khưu, còn có điều này nữa, biển cả có một vị là vị của muối. Này các tỳ khưu, sự việc biển cả chỉ có một vị là vị của muối, này các tỳ khưu, đây là pháp kỳ diệu phi thường thứ sáu về biển cả, ―(như trên)

Này các tỳ khưu, còn có điều này nữa, biển cả có nhiều vật quý, có vô số vật quý. Ở đó, các vật quý ấy như là ngọc trai, ngọc ma-ni, ngọc bích, xà cừ, đá quý, san hô, bạc, vàng, ngọc ru-by, ngọc mắt mèo. Này các tỳ khưu, sự việc biển cả có nhiều vật quý, có vô số vật quý; ở đó, các vật quý ấy ―(như trên)― này các tỳ khưu, đây là pháp kỳ diệu phi tờng thứ bảy về biển cả, ―(như trên)

Này các tỳ khưu, còn có điều này nữa, biển cả là nơi cư trú của các chúng sanh to lớn. Ở đó, các chúng sanh ấy là cá ông, cá voi, cá ông voi, các A-tu-la, các loài rồng, các Càn-thát-bà. Trong biển cả còn có những loài hữu hình lớn đến trăm do tuần, những loài hữu hình lớn đến hai trăm do tuần, những loài hữu hình lớn đến ba trăm do tuần, những loài hữu hình lớn đến bốn trăm do tuần, những loài hữu hình lớn đến năm trăm do tuần. Này các tỳ khưu, sự việc biển cả là nơi cư trú của các chúng sanh to lớn; ở đó, các chúng sanh ấy là cá ông, ―(như trên)― Trong biển cả còn có những loài hữu hình lớn đến trăm do tun, ―(như trên)― những loài hữu hình lớn đến năm trăm do tuần, này các tỳ khưu, đây là pháp kỳ diệu phi thường thứ tám về biển cả, sau khi thường xuyên xem xét pháp ấy các A-tu-la thỏa thích trong biển cả. Này các tỳ khưu, đây là tám pháp kỳ diệu phi thường về biển cả, sau khi thường xuyên xem xét pháp ấy các A-tu-la thỏa thích trong biển cả.

Này các tỳ khưu, tương ty như thế trong Pháp và Luật này có tám pháp kỳ diệu phi thưng, sau khi thường xuyên xem xét những pháp ấy các tỳ khưu thỏa thích trong Pháp và Luật này. Tám pháp ấy là gì?

Này các tỳ khưu, cũng ging như biển cả sâu xuống dần dần, có độ dốc xuống dần dần, có sự lõm xuống dần dần, không có vực sâu một cách đột ngột, này các tỳ khưu, tương t như thế trong Pháp và Luật này có sự học tập theo thứ lớp, có sự thực hành theo thứ lớp, có sự tiến bộ theo thứ lớp, không có sự chứng ngộ đột ngột nào khác. Này các tỳ khưu, sự việc trong Pháp và Luật này có sự học tập theo thứ lớp, có sự thực hành theo thứ lớp, có sự tiến bộ theo thứ lớp, không có sự chứng ngộ đột ngột nào khác, này các tỳ khưu, đây là pháp kỳ diệu phi thường thứ nhất trong Pháp và Luật này, sau khi tờng xuyên xem xét pháp ấy các tỳ khưu thỏa thích trong Pháp và Luật này.

Này các tỳ khưu, cũng ging như biển cả có pháp ổn định, không tràn qua khỏi bờ, này các tỳ khưu, tương t như thế điều học nào đã đưc ta quy đnh cho các đệ tử của ta, các đệ tử của ta không vưt qua điều học ấy dù là nguyên nhân mạng sống. Này các tỳ khưu, sự việc điều học nào đã đưc ta quy đnh cho các đệ tử, các đệ tử của ta không vưt qua điều học ấy dù là nguyên nhân mạng sống, này các tỳ khưu, đây là pháp kỳ diệu phi thường thứ nhì trong Pháp và Luật này, ―(như trên)

Này các tỳ khưu, cũng ging như biển cả không sống chung với xác chết nghĩa là khi ở trong biển cả có xác chết, nó tức thời đưa xác chết ấy vào bờ hoặc hất lên đất liền, này các tỳ khưu, tương t như thế nhân vật nào là kẻ có ác giới, có ác pháp, sở hành bất tịnh và đáng nghi ng, có hành động che giấu, phi Sa-môn, giả mạo Sa-môn, phi Phạm hạnh, giả mạo Phạm hạnh, nội tâm thối nát, nhiễm dục vọng, có bản chất dơ bẩn, hội chúng không sống chung với kẻ ấy mà tức thời tụ hội lại loại trừ kẻ ấy ra; cho dù kẻ ấy ngồi giữa hội chúng tỳ khưu nhưng kẻ ấy vẫn bị tách ly khỏi hội chúng và hội chúng vẫn được tách ly với kẻ ấy. Này các tỳ khưu, sự việc nhân vật nào là kẻ có ác giới, có ác pháp, ―(như trên)― hội chúng không sống chung với nhân vật ấy mà tức thời tụ hội lại loại trừ kẻ ấy ra; cho dù kẻ ấy ngồi giữa hội chúng tỳ khưu nhưng kẻ ấy vẫn bị tách ly khỏi hội chúng và hội chúng vẫn được tách ly với kẻ ấy, này các tỳ khưu, đây là pháp kỳ diệu phi thường thứ ba trong Pháp và Luật này, ―(như trên)

Này các tỳ khưu, cũng ging như các con sông ln như là Gagā, Yamunā, Aciravatī, Sarabhū, Mahī khi đã ra đến biển cả thì từ bỏ các tên họ trưc đây và đi đến tên gọi là ‘Biển cả,’ này các tỳ khưu, tương t như thế bốn loại giai cấp này là vua chúa, Bà-la-môn, thương buôn, và nô bộc, khi họ đã rời nhà xuất gia sống không nhà trong Pháp và Luật được công bố bởi đc Như Lai thì từ bỏ các tên họ trưc đây và đi đến tên gọi là ‘Các Sa-môn Thích tử.’ Này các tỳ khưu, sự việc bốn loại giai cấp này là vua chúa, ―(như trên)― và đi đến tên gọi là ‘Các Sa-môn Thích tử,’ này các tỳ khưu, đây là pháp kỳ diệu phi thường thứ tư trong Pháp và Luật này, ―(như trên)

Này các tỳ khưu, cũng ging như các dòng nước ở trái đt đổ vào biển cả và các trận mưa t không trung rơi xung, nhưng không vì điều ấy mà biển cả đưc xem là vơi hay đầy, này các tỳ khưu, tương t như thế cho dù nhiều vị tỳ khưu Vô Dư Niết Bàn trong cảnh giới Niết Bàn không còn dư sót, nhưng không vì điều ấy mà cảnh giới Niết Bàn được xem là vơi hay đầy. Này các tỳ khưu, sự việc cho dù nhiều vị tỳ khưu Vô Dư Niết Bàn trong cảnh giới Niết Bàn không còn dư sót, nhưng không vì điều ấy mà cảnh giới Niết Bàn đưc xem là vơi hay đầy, này các tỳ khưu, đây là pháp kỳ diệu phi thường thứ năm trong Pháp và Luật này, ―(như trên)

Này các tỳ khưu, cũng ging như biển cả có một vị là vị của muối, này các tỳ khưu, tương t như thế Pháp và Luật này có một vị là vị của giải thoát. Này các tỳ khưu, sự việc Pháp và Luật này có một vị là vị của giải thoát, này các tỳ khưu, đây là pháp kỳ diệu phi thường thứ sáu trong Pháp và Luật này, ―(như trên)

Này các tỳ khưu, cũng ging như biển cả có nhiều vật quý, có vô số vật quý; ở đó, các vật quý ấy như là ngọc trai, ngọc ma-ni, ngọc bích, xà cừ, đá quý, san hô, bạc, vàng, ngọc ru-by, ngọc mắt mèo, này các tỳ khưu, tương t y như thế Pháp và Luật này có nhiều vật quý, có vô số vật quý; ở đây, các vật quý ấy như là bốn sự thiết lập niệm, bốn chánh cần, bốn nền tảng của thần thông, năm quyn, năm lực, bảy pháp đưa đến giác ngộ, Thánh đạo tám ngành.

Này các tỳ khưu, sự việc Pháp và Luật này có nhiều vật quý, có vô số vật quý; ở đây, các vật quý ấy như là bốn sự thiết lập niệm, ―(như trên)― này các tỳ khưu, đây là pháp kỳ diệu phi thường thứ bảy trong Pháp và Luật này, ―(như trên)

Này các tỳ khưu, cũng ging như biển cả là nơi cư trú của các chúng sanh to lớn; ở đó, các chúng sanh ấy là cá ông, cá voi, cá ông voi, các A-tu-la, các loài rồng, các Càn-thát-bà. Trong biển cả còn có những loài hữu hình lớn đến trăm do tuần, những loài hữu hình lớn đến hai trăm do tuần, những loài hữu hình lớn đến ba trăm do tuần, những loài hữu hình lớn đến bốn trăm do tuần, những loài hữu hình lớn đến năm trăm do tuần. Này các tỳ khưu, tương t như thế Pháp và Luật này là nơi cư trú của các chúng sanh vĩ đại; ở đây, các chúng sanh ấy là vị Nhập Lưu, v đang thc hành để chứng ngộ quả Nhập Lưu, vị Nhất Lai, vị đang thc hành để chứng ngộ quả Nhất Lai, vị Bất Lai, vị đang thc hành để chứng ngộ quả Bất Lai, vị A-la-hán, vị đang thc hành để chứng ngộ quả A-la-hán. Này các tỳ khưu, sự việc Pháp và Luật này là nơi cư trú ca các chúng sanh vĩ đại; ở đây, các chúng sanh ấy là vị Nhập Lưu, ―(như trên)― này các tỳ khưu, đây là pháp kỳ diệu phi thường thứ tám trong Pháp và Luật này, sau khi thường xuyên xem xét pháp ấy các tỳ khưu thỏa thích trong Pháp và Luật này. Này các tỳ khưu đây là tám pháp kỳ diệu phi thường trong Pháp và Luật này, sau khi thường xuyên xem xét những pháp ấy các tỳ khưu thỏa thích trong Pháp và Luật này.”

Sau đó, khi đã hiểu ra sự việc ấy, đức Thế Tôn vào thời điểm ấy đã thốt lên lời cảm hứng này:

“Mưa rơi nhiều ở vật đã đưc che đy, mưa không rơi nhiều ở vật đã được mở ra. Vì thế, hãy mở ra vật đã đưc che đy, như vy mưa không rơi nhiều ở vật ấy.”[2]

Sau đó, đức Thế Tôn đã bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, gi đây kể từ nay về sau ta sẽ không tiến hành lễ Uposatha, sẽ không tuyên đọc giới bổn. Này các tỳ khưu, gi đây kể từ nay về sau chính các ngươi có thể tiến hành lễ Uposatha, có thể tụng đọc giới bổn Pātimokkha. Này các tỳ khưu, sự việc này không hợp lý không có cơ sở là việc đc Như Lai có thể tiến hành lễ Uposatha, có thể tuyên đọc giới bổn Pātimokkha ở hội chúng không thanh tịnh. Và này các tỳ khưu, vị phạm tội không nên nghe giới bổn Pātimokkha; vị nào nghe thì phạm tội dukkaṭa. Này các tỳ khưu, vị nào phạm tội mà nghe giới bổn Pātimokkha, ta cho phép đình chỉ giới bổn Pātimokkha của vị ấy.

Và này các tỳ khưu, nên đình chỉ như vy: Vào ngày Uposatha là ngày mười bốn hoặc mưi lăm, trong sự hiện diện của nhân vật ấy, nên nêu lên giữa hội chúng rằng: ‘Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Nhân vật tên (như vầy) là vị phạm tội, tôi đình chỉ giới bổn Pātimokkha của vị ấy, giới bổn Pātimokkha không nên tụng đọc trong sự hiện diện của vị ấy.’ Giới bổn Pātimokkha đã đưc đình chỉ.”

Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lc Sư chính là những vị phạm tội mà vẫn nghe giới bổn Pātimokkha (nghĩ rằng): ‘Không ai biết về chúng ta!’ Các tỳ khưu trưởng lão biết được tâm của người khác nên báo cho các tỳ khưu rng: - “Này các đi đức, các tỳ khưu nhóm Lục Sư tên (như vy) và tên (như vầy) chính là những vị phạm tội mà vẫn nghe giới bổn Pātimokkha (nghĩ rằng): ‘Không ai biết về chúng ta!’” Các tỳ khưu nhóm Lc Sư đã nghe rằng: “Nghe nói các tỳ khưu trưởng lão biết được tâm của người khác nên báo cho các tỳ khưu về chúng ta rằng: ‘Này các đi đức, các tỳ khưu nhóm Lc Sư tên (như vy) và tên (như vầy) chính là những vị phạm tội mà vẫn nghe giới bổn Pātimokkha (nghĩ rằng): ‘Không ai biết về chúng ta!’” Các vị ấy (nghĩ rằng): ‘Trước hết, các tỳ khưu trong sạch sẽ đình chỉ giới bổn Pātimokkha ca chúng ta’ nên ra tay trưc đình chỉ giới bổn Pātimokkha của các tỳ khưu trong sạch không phạm tội khi không có cơ sở, không có nguyên nhân.

Các tỳ khưu nào ít ham muốn, tự biết đủ, khiêm tốn, có hối hận, ưa thích sự học tập, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Vì sao các tỳ khưu nhóm Lc Sư li đình chỉ giới bổn Pātimokkha của các tỳ khưu trong sạch không có phạm tội khi không có cơ s, không có nguyên nhân?” Sau đó, các vị tỳ khưu y đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

- “Này các tỳ khưu, nghe nói các t khưu nhóm Lc Sư đình chỉ giới bổn Pātimokkha của các tỳ khưu trong sạch không có phạm tội khi không có cơ s, không có nguyên nhân, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vy.” ―(như trên)

Sau khi khiển trách, ngài đã nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, không nên đình chỉ giới bổn Pātimokkha của các tỳ khưu trong sạch không có phạm tội khi không có cơ sở, không có nguyên nhân; vị nào đình chỉ thì phạm tội dukkaṭa.

Này các tỳ khưu, một sự đình chỉ giới bổn Pātimokkha sai Pháp, một sự đúng Pháp.

Hai sự đình chỉ giới bổn Pātimokkha sai Pháp, hai sự đúng Pháp.

Ba sự đình chỉ giới bổn Pātimokkha sai Pháp, ba sự đúng Pháp.

Bốn sự đình chỉ giới bổn Pātimokkha sai Pháp, bốn sự đúng Pháp.

Năm s đình chỉ giới bổn Pātimokkha sai Pháp, năm s đúng Pháp.

Sáu sự đình chỉ giới bổn Pātimokkha sai Pháp, sáu sự đúng Pháp.

Bảy sự đình chỉ giới bổn Pātimokkha sai Pháp, bảy sự đúng Pháp.

Tám sự đình chỉ giới bổn Pātimokkha sai Pháp, tám sự đúng Pháp.

Chín sự đình chỉ giới bổn Pātimokkha sai Pháp, chín sự đúng Pháp.

ời sự đình chỉ giới bổn Pātimokkha sai Pháp, mười sự đúng Pháp.

Thế nào là một sự đình chỉ giới bổn Pātimokkha sai Pháp? Vị đình chỉ giới bổn Pātimokkha với sự hư hỏng về giới không có nguyên cớ. Đây là một sự đình chỉ giới bổnPātimokkha sai Pháp. Thế nào là một sự đình chỉ giới bổn Pātimokkha đúng Pháp? V đình chỉ giới bổn Pātimokkha với sự hư hỏng về giới có nguyên cớ. Đây là một sự đình chỉ giới bổn Pātimokkha đúng Pháp.

Thế nào là hai sự đình chỉ giới bổn Pātimokkha sai Pháp? Vị đình chỉ giới bổn Pātimokkha với sự hư hỏng về giới không có nguyên cớ, vị đình chỉ giới bổn Pātimokkha với sự hư hỏng về hạnh kiểm không có nguyên cớ. Đây là hai s đình chỉ giới bổn Pātimokkhasai Pháp. Thế nào là hai sự đình chỉ giới bổn Pātimokkha đúng Pháp? V đình chỉ giới bổnPātimokkha với sự hư hỏng về giới có nguyên cớ, vị đình chỉ giới bổn Pātimokkha với sự hư hỏng về hạnh kiểm có nguyên cớ. Đây là hai s đình chỉ giới bổn Pātimokkha đúng Pháp.

Thế nào là ba sự đình chỉ giới bổn Pātimokkha sai Pháp? Vị đình chỉ giới bổn Pātimokkhavới sự hư hỏng về giới không có nguyên cớ, ―(như trên)― với sự hư hỏng về hạnh kiểm không có nguyên cớ, vị đình chỉ giới bổn Pātimokkha với sự hư hỏng về tri kiến không có nguyên cớ. Đây là ba s đình chỉ giới bổn Pātimokkha sai Pháp. Thế nào là ba sự đình chỉ giới bổn Pātimokkha đúng Pháp? V đình chỉ giới bổn Pātimokkha với sự hư hỏng về giới có nguyên cớ, ―(như trên)― với sự hư hỏng về hạnh kiểm có nguyên cớ, vị đình chỉ giới bổn Pātimokkha với sự hư hỏng về tri kiến có nguyên cớ. Đây là ba s đình chỉ giới bổn Pātimokkha đúng Pháp.

Thế nào là bốn sự đình chỉ giới bổn Pātimokkha sai Pháp? Vị đình chỉ giới bổn Pātimokkha với sự hư hỏng về giới không có nguyên cớ, ―(như trên)― với sự hư hỏng về hạnh kiểm không có nguyên cớ, ―(như trên)― với sự hư hỏng về tri kiến không có nguyên cớ, vị đình chỉ giới bổn Pātimokkha với sự hư hỏng về nuôi mạng không có nguyên cớ. Đây là bốn sự đình chỉ giới bổn Pātimokkha sai Pháp. Thế nào là bốn sự đình chỉ giới bổn Pātimokkha đúng Pháp? V đình chỉ giới bổn Pātimokkha với sự hư hỏng về giới có nguyên cớ, ―(như trên)― với sự hư hỏng về hạnh kiểm có nguyên cớ, ―(như trên)― với sự hư hỏng về tri kiến có nguyên cớ, ―(như trên)― với sự hư hỏng về nuôi mạng có nguyên cớ. Đây là bốn sự đình chỉ giới bổn Pātimokkha đúng Pháp.

Thế nào là năm s đình chỉ giới bổn Pātimokkha sai Pháp? Vị đình chỉ giới bổn Pātimokkha với tội pārājika không có nguyên cớ, ―(như trên)― với tội saṅghādisesa không có nguyên cớ, ―(như trên)― với tội pācittiya không có nguyên cớ, ―(như trên)― với tội pāidesanīya không có nguyên cớ, vị đình chỉ giới bổn Pātimokkha với tội dukkaṭa không có nguyên cớ. Đây là năm s đình chỉ giới bổn Pātimokkha sai Pháp. Thế nào là năm s đình chỉ giới bổn Pātimokkha đúng Pháp? V đình chỉ giới bổn Pātimokkha với tội pārājika có nguyên cớ, ―(như trên)― với tội saṅghādisesa có nguyên cớ, ―(như trên)― với tội pācittiya có nguyên cớ, ―(như trên)― với tội pāidesanīya có nguyên cớ, ―(như trên)― với tội dukkaṭacó nguyên cớ. Đây là năm s đình chỉ giới bổn Pātimokkha đúng Pháp.

Thế nào là sáu sự đình chỉ giới bổn Pātimokkha sai Pháp? Vị đình chỉ giới bổn Pātimokkha với sự hư hỏng về giới chưa làm không có nguyên cớ, ... với sự hư hỏng về giới đã làm không có nguyên cớ, ... với sự hư hỏng về hạnh kiểm chưa làm không có nguyên cớ, ... với sự hư hỏng về hạnh kiểm đã làm không có nguyên cớ, ... với sự hư hỏng về tri kiến chưa làm không có nguyên cớ, vị đình chỉ giới bổn Pātimokkha với sự hư hỏng về tri kiến đã làm không có nguyên cớ. Đây là sáu s đình chỉ giới bổn Pātimokkha sai Pháp. Thế nào là sáu sự đình chỉ giới bổn Pātimokkha đúng Pháp? V đình chỉ giới bổn Pātimokkha với sự hư hỏng về giới chưa làm có nguyên cớ, ... với sự hư hỏng về giới đã làm có nguyên cớ, ... với sự hư hỏng về hạnh kiểm chưa làm có nguyên cớ, ... với sự hư hỏng về hạnh kiểm đã làm có nguyên cớ, ... với sự hư hỏng về tri kiến chưa làm có nguyên cớ, vị đình chỉ giới bổnPātimokkha với sự hư hỏng về tri kiến đã làm có nguyên cớ. Đây là sáu s đình chỉ giới bổnPātimokkha đúng Pháp.

Thế nào là bảy sự đình chỉ giới bổn Pātimokkha sai Pháp? Vị đình chỉ giới bổn Pātimokkha với tội pārājika không có nguyên cớ, ... với tội saṅghādisesa không có nguyên cớ, ... với tội thullaccaya không có nguyên cớ, ... với tội pācittiya không có nguyên cớ, ... với tội pāidesanīya không có nguyên cớ, ... với tội dukkaṭa không có nguyên cớ, vị đình chỉ giới bổn Pātimokkha với tội dubbhāsita không có nguyên cớ. Đây là bảy sự đình chỉ giới bổnPātimokkha sai Pháp. Thế nào là bảy sự đình chỉ giới bổn Pātimokkha đúng Pháp? V đình chỉ giới bổn Pātimokkha với tội pārājika có nguyên cớ, ... với tội saṅghādisesa có nguyên cớ, ... với tội thullaccaya có nguyên cớ, ... với tội pācittiya có nguyên cớ, ... với tội pāidesanīya có nguyên cớ, ... với tội dukkaṭa có nguyên cớ, vị đình chỉ giới bổn Pātimokkha với tộidubbhāsita có nguyên cớ. Đây là bảy sự đình chỉ giới bổn Pātimokkha đúng Pháp.

Thế nào là tám sự đình chỉ giới bổn Pātimokkha sai Pháp? Vị đình chỉ giới bổn Pātimokkha với sự hư hỏng về giới chưa làm không có nguyên cớ, ... với sự hư hỏng về giới đã làm không có nguyên cớ, ... với sự hư hỏng về hạnh kiểm chưa làm không có nguyên cớ, ... với sự hư hỏng về hạnh kiểm đã làm không có nguyên cớ, ... với sự hư hỏng về tri kiến chưa làm không có nguyên cớ, ... với sự hư hỏng về tri kiến đã làm không có nguyên cớ, ... với sự hư hỏng về nuôi mạng chưa làm không có nguyên cớ, vị đình chỉ giới bổn Pātimokkhavới sự hư hỏng về nuôi mạng đã làm không có nguyên cớ. Đây là tám s đình chỉ giới bổn Pātimokkha sai Pháp. Thế nào là tám sự đình chỉ giới bổn Pātimokkha đúng Pháp? V đình chỉ giới bổn Pātimokkha với sự hư hỏng về giới chưa làm có nguyên cớ, ... với sự hư hỏng về giới đã làm có nguyên cớ, ... với sự hư hỏng về hạnh kiểm chưa làm có nguyên cớ, ... với sự hư hỏng về hạnh kiểm đã làm có nguyên cớ, ... với sự hư hỏng về tri kiến chưa làm có nguyên cớ, ... với sự hư hỏng về tri kiến đã làm có nguyên cớ, ... với sự hư hỏng về nuôi mạng chưa làm có nguyên cớ, vị đình chỉ giới bổn Pātimokkha với sự hư hỏng về nuôi mạng đã làm có nguyên cớ. Đây là tám s đình chỉ giới bổn Pātimokkha đúng Pháp.

Thế nào là chín sự đình chỉ giới bổn Pātimokkha sai Pháp? Vị đình chỉ giới bổn Pātimokkha với sự hư hỏng về giới chưa làm không có nguyên cớ, ... với sự hư hỏng về giới đã làm không có nguyên cớ, ... với sự hư hỏng về giới đã làm và chưa làm không có nguyên cớ, ... với sự hư hỏng về hạnh kiểm chưa làm không có nguyên cớ, ... với sự hư hỏng về hạnh kiểm đã làm không có nguyên cớ, ... với sự hư hỏng về hạnh kiểm đã làm và chưa làm không có nguyên cớ, ... với sự hư hỏng về tri kiến chưa làm không có nguyên cớ, ... với sự hư hỏng về tri kiến đã làm không có nguyên cớ, vị đình chỉ giới bổn Pātimokkha với sự hư hỏng về tri kiến đã làm và chưa làm không có nguyên cớ. Đây là chín s đình chỉ giới bổn Pātimokkhasai Pháp. Thế nào là chín sự đình chỉ giới bổn Pātimokkha đúng Pháp? V đình chỉ giới bổn Pātimokkha với sự hư hỏng về giới chưa làm có nguyên cớ, ... với sự hư hỏng về giới đã làm có nguyên cớ, ... với sự hư hỏng về giới đã làm và chưa làm có nguyên cớ, ... với sự hư hỏng về hạnh kiểm chưa làm có nguyên cớ, ... với sự hư hỏng về hạnh kiểm đã làm có nguyên cớ, ... với sự hư hỏng về hạnh kiểm đã làm và chưa làm có nguyên cớ, ... với sự hư hỏng về tri kiến chưa làm có nguyên cớ, ... với sự hư hỏng về tri kiến đã làm có nguyên cớ, vị đình chỉ giới bổn Pātimokkha với sự hư hỏng về tri kiến đã làm và chưa làm có nguyên c. Đây là chín s đình chỉ giới bổn Pātimokkha đúng Pháp.

Thế nào là mười sự đình chỉ giới bổn Pātimokkha sai Pháp? Vị phạm tội pārājika không ngồi ở tập thể đó, sự thảo luận về tội pārājika chưa được dứt điểm, vị đã xả bỏ sự học tập không ngồi ở tập thể đó, sự thảo luận về vị đã xả bỏ sự học tập chưa được dứt điểm, vị phục tùng sự hợp nhất đúng Pháp, vị không bác bỏ sự hợp nhất đúng Pháp, sự thảo luận về việc bác bỏ sự hợp nhất đúng Pháp chưa được dứt điểm, vị không bị thấy bị nghe bị nghi ngờ với sự hư hỏng về giới, vị không bị thấy bị nghe bị nghi ngờ với sự hư hỏng về hạnh kiểm, vị không bị thấy bị nghe bị nghi ngờ với sự hư hỏng về tri kiến. Đây là mười sự đình chỉ giới bổn Pātimokkha sai Pháp. Thế nào là mười sự đình chỉ giới bổn Pātimokkha đúng Pháp? Vị phạm tội pārājika ngồi ở tập thể đó, sự thảo luận về tội pārājika đã được dứt điểm, vị đã xả bỏ sự học tập ngồi ở tập thể đó, sự thảo luận về vị đã xả bỏ sự học tập đã được dứt điểm, vị không phục tùng sự hợp nhất đúng Pháp, vị bác bỏ sự hợp nhất đúng Pháp, sự thảo luận về việc bác bỏ sự hợp nhất đúng Pháp đã được dứt điểm, vị bị thấy bị nghe bị nghi ngờ với sự hư hỏng về giới, vị bị thấy bị nghe bị nghi ngờ với sự hư hỏng về hạnh kiểm, vị bị thấy bị nghe bị nghi ngờ với sự hư hỏng về tri kiến. Đây là mười sự đình chỉ giới bổn Pātimokkhađúng Pháp.

Thế nào là vị phạm tội pārājika ngồi ở tập thể đó? Này các tỳ khưu,  đây sự phạm tộipārājika là do những hình thức nào, do những đặc tính nào, do những dấu hiệu nào, vị tỳ khưu nhìn thấy vị tỳ khưu (khác) đang phạm tội pārājika với những hình thức ấy, với những đặc tính ấy, với những dấu hiệu ấy. Cho dù vị tỳ khưu không nhìn thấy vị tỳ khưu (khác) đang phạm tội pārājika nhưng lại có vị tỳ khưu khác (thứ ba) nói với vị tỳ khưu rng: ‘Này đi đức, vị tỳ khưu tên (như vy) đã phạm tội pārājika!’

Cho dù vị tỳ khưu không nhìn thấy vị tỳ khưu đang phạm tội pārājika và cũng không có vị tỳ khưu khác (thứ ba) nói với vị tỳ khưu rng: ‘Này đi đức, vị tỳ khưu tên (như vy) đã phạm tội pārājika!’ nhưng chính vị tỳ khưu (phạm tội) ấy đã nói với vị tỳ khưu rng: ‘Này đi đc, tôi đã phạm tội pārājika!’

Này các tỳ khưu, vi điu đã được nghe ấy, với điu đã được thấy ấy, với điu đã nghi ngờ ấy, vị tỳ khưu nếu muốn thì vào ngày Uposatha là ngày mười bốn hoặc mưi lăm, trong sự hiện diện của nhân vật ấy, có thể nêu lên giữa hội chúng rằng:

‘Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Nhân vật tên (như vy) đã phạm tội pārājika, tôi đình chỉ giới bổn Pātimokkha của vị ấy, giới bổn Pātimokkha không nên tụng đọc trong sự hiện diện của vị ấy.’ Sự đình chỉ giới bổn Pātimokkha là đúng Pháp.

Khi giới bổn Pātimokkha của vị tỳ khưu đã bị đình chỉ, (nếu) tập thể giải tán do sự nguy hiểm nào đó trong mười sự nguy hiểm là sự nguy hiểm từ đức vua, sự nguy hiểm vì trộm cướp, sự nguy hiểm vì hỏa hoạn, sự nguy hiểm vì nước ngập, sự nguy hiểm vì loài người, sự nguy hiểm vì phi nhân, sự nguy hiểm vì thú dữ, sự nguy hiểm vì rắn, sự nguy hiểm vì mạng sống, sự nguy hiểm vì Phạm hạnh, này các tỳ khưu, tại trú xứ ấy hoặc trú xứ nào khác, trong sự hiện diện của nhân vật ấy, vị tỳ khưu (nguyên cáo) nếu muốn có thể nêu lên giữa hội chúng rằng:

‘Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Sự thảo luận về tội pārājika của nhân vật tên (như vy) chưa được dứt điểm, sự việc ấy chưa được quyết định. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên quyết định sự việc này.’

Nếu việc ấy đt đưc như thế, việc ấy như vậy là tốt đẹp. Nếu không đt được, thì vào ngày Uposatha là ngày mười bốn hoặc mưi lăm, trong sự hiện diện của nhân vật ấy, nên nêu lên giữa hội chúng rằng:

‘Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Sự thảo luận về tội pārājika của nhân vật tên (như vy) chưa được dứt điểm, sự việc ấy chưa được quyết đnh. Tôi đình chỉ giới bổn Pātimokkha của vị ấy, giới bổn Pātimokkha không nên tụng đọc trong sự hiện diện của vị ấy.’

Sự đình chỉ giới bổn Pātimokkha là đúng Pháp.

Thế nào là vị đã xả bỏ sự học tập ngồi ở tập thể đó? Này các t khưu,  đây sự học tập được vị tỳ khưu xả bỏ do những hình thức nào, do những đặc tính nào, do những dấu hiệu nào, vị tỳ khưu nhìn thấy vị tỳ khưu (khác) đang xả bỏ sự học tập với những hình thức ấy, với những đặc tính ấy, với những dấu hiệu ấy. Cho dù vị tỳ khưu không nhìn thấy vị tỳ khưu (khác) đang xả bỏ sự học tập nhưng lại có vị tỳ khưu khác (thứ ba) nói với vị tỳ khưu rng: ‘Này đi đức, vị tỳ khưu tên (như vy) đã xả bỏ sự học tập!’ Cho dù vị tỳ khưu không nhìn thấy vị tỳ khưu (khác) đang xả bỏ sự học tập và cũng không có vị tỳ khưu khác (thứ ba) nói với vị tỳ khưu rng: ‘Này đi đức, vị tỳ khưu tên (như vy) đã xả bỏ sự học tập!’ nhưng chính vị tỳ khưu y đã nói với vị tỳ khưu rng: ‘Này đi đức, tôi đã xả bỏ sự học tập!’ này các tỳ khưu, vi điu đã được nghe ấy, với điu đã được thấy ấy, với điu đã nghi ngờ ấy, vị tỳ khưu nếu muốn thì vào ngày Uposatha là ngày mười bốn hoặc mưi lăm, trong sự hiện diện của nhân vật ấy, có thể nêu lên giữa hội chúng rằng:

‘Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Nhân vật tên (như vy) đã xả bỏ sự học tập, tôi đình chỉ giới bổn Pātimokkha của vị ấy, giới bổn Pātimokkha không nên tụng đọc trong sự hiện diện của vị ấy.’ Sự đình chỉ giới bổn Pātimokkha là đúng Pháp.

Khi giới bổn Pātimokkha của vị tỳ khưu đã bị đình chỉ, (nếu) tập thể giải tán do sự nguy hiểm nào đó trong mười sự nguy hiểm là sự nguy hiểm từ đc vua, ―(như trên)― hoặc sự nguy hiểm vì Phạm hạnh, này các tỳ khưu, tại trú xứ ấy hoặc trú xứ nào khác, trong sự hiện diện của nhân vật ấy, vị tỳ khưu (nguyên cáo) nếu muốn có thể nêu lên giữa hội chúng rằng:

‘Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Sự thảo luận về việc xả bỏ sự học tập của nhân vật tên (như vy) chưa được dứt điểm. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên quyết định sự việc này.’ Nếu việc ấy đt đưc như thế, việc ấy như vậy là tốt đẹp. Nếu không đt được, thì vào ngày Uposatha là ngày mười bốn hoặc mưi lăm, trong sự hiện diện của nhân vật ấy, nên nêu lên giữa hội chúng rằng: ‘Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Sự thảo luận về việc xả bỏ sự học tập của nhân vật tên (như vy) chưa được dứt điểm, sự việc ấy chưa được quyết đnh. Tôi đình chỉ giới bổn Pātimokkha của vị ấy, giới bổnPātimokkha không nên tụng đọc trong sự hiện diện của vị ấy.’ Sự đình chỉ giới bổn Pātimokkha là đúng Pháp.

Thế nào là vị không phục tùng sự hợp nhất đúng Pháp? Này các t khưu,  đây việc không phục tùng sự hợp nhất đúng Pháp của vị tỳ khưu là do những hình thức nào, do những đặc tính nào, do những dấu hiệu nào, thì vị tỳ khưu nhìn thấy vị tỳ khưu (khác) không phục tùng sự hợp nhất đúng Pháp với những hình thức ấy, với những đặc tính ấy, với những dấu hiệu ấy. Cho dù vị tỳ khưu không nhìn thấy vị tỳ khưu (khác) không phục tùng sự hợp nhất đúng Pháp nhưng lại có vị tỳ khưu khác (thứ ba) nói với vị tỳ khưu rng: ‘Này đi đức, vị tỳ khưu tên (như vầy) không phục tùng sự hợp nhất đúng Pháp!’

Cho dù vị tỳ khưu không nhìn thấy vị tỳ khưu (khác) không phục tùng sự hợp nhất đúng Pháp và cũng không có vị tỳ khưu khác (thứ ba) nói với vị tỳ khưu rng: ‘Này đi đức, vị tỳ khưu tên (như vầy) không phục tùng sự hợp nhất đúng Pháp!’ nhưng chính vị tỳ khưu y đã nói với vị tỳ khưu rng: ‘Này đi đức, tôi không phục tùng sự hợp nhất đúng Pháp!’ này các tỳ khưu, vi điu đã được nghe ấy, với điu đã được thấy ấy, với điu đã nghi ngờ ấy, vị tỳ khưu nếu muốn thì vào ngày Uposatha là ngày mười bốn hoặc mưi lăm, trong sự hiện diện của nhân vật ấy, có thể nêu lên giữa hội chúng rằng:

‘Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Nhân vật tên (như vầy) không phục tùng sự hợp nhất đúng Pháp, tôi đình chỉ giới bổn Pātimokkha của vị ấy, giới bổn Pātimokkhakhông nên tụng đọc trong sự hiện diện của vị ấy.’ Sự đình chỉ giới bổn Pātimokkha là đúng Pháp.

Thế nào là vị bác bỏ sự hợp nhất đúng Pháp? Này các t khưu,  đây việc bác bỏ sự hợp nhất đúng Pháp là do những hình thức nào, do những đặc tính nào, do những dấu hiệu nào, vị tỳ khưu nhìn thấy vị tỳ khưu (khác) đang bác bỏ sự hợp nhất đúng Pháp với những hình thức ấy, với những đặc tính ấy, với những dấu hiệu ấy. Cho dù vị tỳ khưu không nhìn thấy vị tỳ khưu (khác) đang bác bỏ sự hợp nhất đúng Pháp nhưng lại có vị tỳ khưu khác (thứ ba) nói với vị tỳ khưu rng: ‘Này đi đức, vị tỳ khưu tên (như vầy) bác bỏ sự hợp nhất đúng Pháp!’ Cho dù vị tỳ khưu không nhìn thấy vị tỳ khưu (khác) đang bác bỏ sự hợp nhất đúng Pháp và cũng không có vị tỳ khưu khác (thứ ba) nói với vị tỳ khưu rng: ‘Này đi đức, vị tỳ khưu tên (như vầy) bác bỏ sự hợp nhất đúng Pháp!’ nhưng chính vị tỳ khưu y đã nói với vị tỳ khưu rng: ‘Này đi đức, tôi bác bỏ sự hợp nhất đúng Pháp!’ Này các t khưu, vi điu đã được nghe ấy, với điu đã được thấy ấy, với điu đã nghi ngờ ấy, vị tỳ khưu nếu muốn thì vào ngày Uposatha là ngày mười bốn hoặc mưi lăm, trong sự hiện diện của nhân vật ấy, có thể nêu lên giữa hội chúng rằng: ‘Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Nhân vật tên (như vầy) bác bỏ sự hợp nhất đúng Pháp, tôi đình chỉ giới bổn Pātimokkha của vị ấy, giới bổn Pātimokkha không nên tụng đọc trong sự hiện diện của vị ấy.’ Sự đình chỉ giới bổn Pātimokkha là đúng Pháp.

Khi giới bổn Pātimokkha của vị tỳ khưu đã bị đình chỉ, (nếu) tập thể giải tán do sự nguy hiểm nào đó trong mười sự nguy hiểm là sự nguy hiểm từ đc vua, ―(như trên)― hoặc sự nguy hiểm vì Phạm hạnh. Này các tỳ khưu, tại trú xứ ấy hoặc trú xứ nào khác, trong sự hiện diện của nhân vật ấy, vị tỳ khưu (nguyên cáo) nếu muốn có thể nêu lên giữa hội chúng rằng:

‘Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Sự thảo luận về việc bác bỏ sự hợp nhất đúng Pháp của nhân vật tên (như vy) chưa được dứt điểm, sự việc ấy chưa được quyết định. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên quyết định sự việc ấy.’

Nếu sự việc ấy có thể đt đưc như vậy, sự việc ấy như thế là tốt đẹp. Nếu không thể đt được, thì vào ngày Uposatha là ngày mười bốn hoặc mưi lăm, trong sự hiện diện của nhân vật ấy, nên nêu lên giữa hội chúng rằng: ‘Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Sự thảo luận về việc bác bỏ sự hợp nhất đúng Pháp của nhân vật tên (như vy) chưa được dứt điểm, sự việc ấy chưa được quyết đnh. Tôi đình chỉ giới bổn Pātimokkha của vị ấy, giới bổn Pātimokkha không nên tụng đọc trong sự hiện diện của vị ấy.’ Sự đình chỉ giới bổnPātimokkha là đúng Pháp.

Thế nào là vị bị thấy bị nghe bị nghi ngờ với sự hư hỏng về giới? Này các tỳ khưu,  đây vị tỳ khưu là bị thấy bị nghe bị nghi ngờ với sự hư hỏng về giới do những hình thức nào, do những đặc tính nào, do những dấu hiệu nào, vị tỳ khưu nhìn thấy vị tỳ khưu (khác) bị thấy bị nghe bị nghi ngờ với sự hư hỏng về giới do những hình thức ấy, do những đặc tính ấy, do những dấu hiệu ấy. Cho dù vị tỳ khưu không nhìn thấy vị tỳ khưu (khác) bị thấy bị nghe bị nghi ngờ với sự hư hỏng về giới nhưng lại có vị tỳ khưu khác (thứ ba) nói với vị tỳ khưu rằng: ‘Này đi đức, vị tỳ khưu tên (như vầy) bị thấy bị nghe bị nghi ngờ với sự hư hỏng về giới!’ Cho dù vị tỳ khưu không nhìn thấy vị tỳ khưu (khác) bị thấy bị nghe bị nghi ngờ với sự hư hỏng về giới và cũng không có vị tỳ khưu khác (thứ ba) nói với vị tỳ khưu rng: ‘Này đi đức, vị tỳ khưu tên (như vầy) bị thấy bị nghe bị nghi ngờ với sự hư hỏng về giới!’ nhưng chính vị tỳ khưu y đã nói với vị tỳ khưu rng: ‘Này đi đức, tôi bị thấy bị nghe bị nghi ngờ với sự hư hỏng về giới!’

Này các tỳ khưu, vi điu đã được nghe ấy, với điu đã được thấy ấy, với điu đã nghi ngờ ấy, vị tỳ khưu nếu muốn thì vào ngày Uposatha là ngày mười bốn hoặc mưi lăm, trong sự hiện diện của nhân vật ấy, nên nêu lên giữa hội chúng rằng: ‘Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Nhân vật tên (như vầy) bị thấy bị nghe bị nghi ngờ với sự hư hỏng về giới, tôi đình chỉ giới bổn Pātimokkha của vị ấy, giới bổn Pātimokkha không nên tụng đọc trong sự hiện diện của vị ấy.’ Sự đình chỉ giới bổn Pātimokkha là đúng Pháp.

Thế nào là vị bị thấy bị nghe bị nghi ngờ với sự hư hỏng về hạnh kiểm? Này các tỳ khưu,  đây vị tỳ khưu là bị thấy bị nghe bị nghi ngờ với sự hư hỏng về hạnh kiểm do những hình thức nào, do những đặc tính nào, do những dấu hiệu nào, vị tỳ khưu nhìn thấy vị tỳ khưu (khác) bị thấy bị nghe bị nghi ngờ với sự hư hỏng về hạnh kiểm do những hình thức ấy, do những đặc tính ấy, do những dấu hiệu ấy. Cho dù vị tỳ khưu không nhìn thấy vị tỳ khưu (khác) bị thấy bị nghe bị nghi ngờ với sự hư hỏng về hạnh kiểm nhưng lại có vị tỳ khưu khác (thứ ba) nói với vị tỳ khưu rng: ‘Này đi đức, vị tỳ khưu tên (như vầy) bị thấy bị nghe bị nghi ngờ với sự hư hỏng về hạnh kiểm!’ Cho dù vị tỳ khưu không nhìn thấy vị tỳ khưu (khác) bị thấy bị nghe bị nghi ngờ với sự hư hỏng về hạnh kiểm và cũng không có vị tỳ khưu khác (thứ ba) nói với vị tỳ khưu rng: ‘Này đi đức, vị tỳ khưu tên (như vầy) bị thấy bị nghe bị nghi ngờ với sự hư hỏng về hạnh kiểm!’ nhưng chính vị tỳ khưu y đã nói với vị tỳ khưu rng: ‘Này đi đức, tôi bị thấy bị nghe bị nghi ngờ với sự hư hỏng về hạnh kiểm!’

Này các tỳ khưu, vi điu đã được nghe ấy, với điu đã được thấy ấy, với điu đã nghi ngờ ấy, vị tỳ khưu nếu muốn thì vào ngày Uposatha là ngày mười bốn hoặc mưi lăm, trong sự hiện diện của nhân vật ấy, có thể nêu lên giữa hội chúng rằng: ‘Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Nhân vật tên (như vầy) bị thấy bị nghe bị nghi ngờ với sự hư hỏng về hạnh kiểm, tôi đình chỉ giới bổn Pātimokkha của vị ấy, giới bổn Pātimokkha không nên tụng đọc trong sự hiện diện của vị ấy.’ Sự đình chỉ giới bổn Pātimokkha là đúng Pháp.

Thế nào là vị bị thấy bị nghe bị nghi ngờ với sự hư hỏng về tri kiến? Này các tỳ khưu,  đây vị tỳ khưu bị thấy bị nghe bị nghi ngờ với sự hư hỏng về tri kiến do những hình thức nào, do những đặc tính nào, do những dấu hiệu nào, vị tỳ khưu nhìn thấy vị tỳ khưu (khác) bị thấy bị nghe bị nghi ngờ với sự hư hỏng về tri kiến do những hình thức ấy, do những đặc tính ấy, do những dấu hiệu ấy. Cho dù vị tỳ khưu không nhìn thấy vị tỳ khưu (khác) bị thấy bị nghe bị nghi ngờ với sự hư hỏng về tri kiến nhưng lại có vị tỳ khưu khác (thứ ba) nói với vị tỳ khưu rng: ‘Này đi đức, vị tỳ khưu tên (như vầy) bị thấy bị nghe bị nghi ngờ với sự hư hỏng về tri kiến!’ Cho dù vị tỳ khưu không nhìn thấy vị tỳ khưu (khác) bị thấy bị nghe bị nghi ngờ với sự hư hỏng về tri kiến và cũng không có vị tỳ khưu khác (thứ ba) nói với vị tỳ khưu rng: ‘Này đi đức, vị tỳ khưu tên (như vầy) bị thấy bị nghe bị nghi ngờ với sự hư hỏng về tri kiến!’ nhưng chính vị tỳ khưu y đã nói với vị tỳ khưu rng: ‘Này đi đức, tôi bị thấy bị nghe bị nghi ngờ với sự hư hỏng về tri kiến!’

Này các tỳ khưu, vi điu đã được nghe ấy, với điu đã được thấy ấy, với điu đã nghi ngờ ấy, vị tỳ khưu nếu muốn thì vào ngày Uposatha là ngày mười bốn hoặc mưi lăm, trong sự hiện diện của nhân vật ấy, có thể nêu lên giữa hội chúng rằng: ‘Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Nhân vật tên (như vầy) bị thấy bị nghe bị nghi ngờ với sự hư hỏng về tri kiến, tôi đình chỉ giới bổn Pātimokkha của vị ấy, giới bổn Pātimokkha không nên tụng đọc trong sự hiện diện của vị ấy.’ Sự đình chỉ giới bổn Pātimokkha là đúng Pháp. Đây là mười sự đình chỉ giới bổn Pātimokkha đúng Pháp.”

Tụng phẩm thứ nhất.

*****

[1] Tòa nhà này được xây dựng bởi mẹ của Migāra, tức là nữ cư sĩ Visākhā (ND).

[2] Người phạm tội mà che giấu (vật đã đưc che đậy) thì sẽ tiếp tục phạm tội (mưa rơi nhiều), còn ngưi đã phạm tội mà sám hối (vật đã được mở ra) thì sẽ không tiếp tục phạm tội nữa (VinA. vi, 1287; UdA. 306; ThagA. ii, 188). Câu kệ này cũng được thấy ở Theragāthāpāi - Trưởng Lão Kệ, câu kệ 447, TTPV tập 31, trang 131; Udānapāḷi - Cảm Hứng Ngữ, Soṇavagga, Uposathasuttaṃ, TTPV tập 28, trang 239.



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada