[1] Bốn điều làm say đắm: vóc dáng, chủng loại, âm giọng, và đức tính (JāA ii, 108)
Cánh đẹp cùng cánh đẹp,
Chư Thiên cùng chư Thiên,
Có đủ bốn vẻ đẹp,
Sao chó lại ở đây?
Hỡi con chó rừng kia,
Hãy về hang của chó!
227. Sīhaṅgulī sīhanakho sīhapādapatiṭṭhito, so sīho sīhasaṅghamhi eko nadati aññathā.
227. “Có ngón chân sư tử, có móng chân sư tử, đứng lên với các bàn chân sư tử, nó là con sư tử trong bầy sư tử, một mình nó gầm rú một cách khác.”
Ngón chân và móng chân
Là ngón, móng sư tử,
Nó có chân sư tử,
Ðể đứng dựa lên trên,
Nhưng giữa chúng sư tử,
Tiếng kêu nó lại khác.
228. Mā tvaṃ nadi rājaputta appasaddo vane vasa, sarena kho taṃ jāneyyuṃ na hi te pettiko saro ”ti.
8. Sīhakotthukajātakaṃ.
228. “Này con trai của chúa rừng, con chớ gầm rú. Con hãy sống ở rừng, ít phát âm. Chúng có thể nhận biết con nhờ vào âm giọng, bởi vì giọng của con không phải là giọng của cha.”
Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada