Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu xứng đáng hình phạt mānatta ưng thuận sự đảnh lễ, sự đứng dậy, sự chắp tay, hành động thích hợp, sự sửa soạn chỗ ngồi, sự sửa soạn chỗ nằm, nước rửa chân, ghế kê chân, tấm chà chân, sự tiếp rước y bát, sự kỳ cọ lưng trong khi tắm của các tỳ khưu trong sạch. Các tỳ khưu nào ít ham muốn, tự biết đủ, khiêm tốn, có hối hận, ưa thích sự học tập, các vị ấy phàn nàn, phê phán, chê bai rằng: - “Vì sao các tỳ khưu xứng đáng hình phạt mānatta lại ưng thuận sự đảnh lễ, sự đứng dậy, ―(như trên)― sự kỳ cọ lưng trong khi tắm của các tỳ khưu trong sạch?” Sau đó, các vị tỳ khưu ấy đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.
Khi ấy, đức Thế Tôn nhân lý do ấy nhân sự kiện ấy đã triệu tập hội chúng tỳ khưu lại và đã hỏi các tỳ khưu rằng: - “Này các tỳ khưu, nghe nói các tỳ khưu xứng đáng hình phạtmānatta ưng thuận sự đảnh lễ, sự đứng dậy, ―(như trên)― sự kỳ cọ lưng trong khi tắm của các tỳ khưu trong sạch, có đúng không vậy?” - “Bạch Thế Tôn, đúng vậy.”
Đức Phật Thế Tôn đã khiển trách rằng: ―(như trên)― “Này các tỳ khưu, tại sao các tỳ khưu xứng đáng hình phạt mānatta lại ưng thuận sự đảnh lễ, sự đứng dậy, ―(như trên)― sự kỳ cọ lưng trong khi tắm của các tỳ khưu trong sạch? Này các tỳ khưu, sự việc này không đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, ―(như trên)― Sau khi khiển trách, ngài đã nói Pháp thoại rồi bảo các tỳ khưu rằng:
- “Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu xứng đáng hình phạt mānatta không nên ưng thuận sự đảnh lễ, sự đứng dậy, ―(như trên)― sự kỳ cọ lưng trong khi tắm của các tỳ khưu trong sạch; vị nào ưng thuận thì phạm tội dukkaṭa. Này các tỳ khưu, ta cho phép việc đảnh lễ, việc đứng dậy, ―(như trên)― việc kỳ cọ lưng trong khi tắm giữa các tỳ khưu xứng đáng hình phạt mānatta với nhau được tính theo thâm niên.
Này các tỳ khưu, ta cho phép năm sự việc là lễ Uposatha, lễ Pavāraṇā, y tắm mưa, sự phân chia (vật cúng dường), bữa thọ trai được tính theo thâm niên đối với các tỳ khưu xứng đáng hình phạt mānatta.
Này các tỳ khưu, chính vì điều ấy ta sẽ quy định phận sự cho các tỳ khưu xứng đáng hình phạt mānatta, các tỳ khưu xứng đáng hình phạt mānatta nên thực hành theo như thế. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu xứng đáng hình phạt mānatta nên thực hành phận sự đúng đắn. Trong trường hợp này, các phận sự đúng đắn ấy là:
Không nên ban phép tu lên bậc trên, không nên ban cho phép nương nhờ, không nên bảo sa di phục vụ, ―(như trên)― không nên cấu kết với các tỳ khưu. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu xứng đáng hình phạt mānatta không nên đi phía trước, không nên ngồi phía trước vị tỳ khưu trong sạch. Nên cho vị ấy chỗ ngồi cuối cùng, chỗ nằm cuối cùng, trú xá cuối cùng của hội chúng, và vị ấy nên ưng thuận việc ấy.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu xứng đáng hình phạt mānatta không nên đi đến các gia đình với vị tỳ khưu trong sạch làm vị Sa-môn đi trước hoặc làm Sa-môn theo sau, không nên thọ trì pháp (đầu đà) cư ngụ ở trong rừng, không nên thọ trì pháp (đầu đà) hành khất thực, không vì lý do đó mà cho người đem lại vật thực (nghĩ rằng): ‘Chớ để họ biết về mình.’
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu xứng đáng hình phạt mānatta từ chỗ trú có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú không có tỳ khưu, trừ phi (cùng đi) với vị tỳ khưu trong sạch, trừ phi có nguy hiểm. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu xứng đáng hình phạt mānatta từ chỗ trú có tỳ khưu không nên đi đến nơi không phải là chỗ trú không có tỳ khưu, trừ phi (cùng đi) với vị tỳ khưu trong sạch, trừ phi có nguy hiểm. Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu xứng đáng hình phạt mānatta từ chỗ trú có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú hoặc nơi không phải là chỗ trú không có tỳ khưu, trừ phi (cùng đi) với vị tỳ khưu trong sạch, trừ phi có nguy hiểm.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu xứng đáng hình phạt mānatta từ nơi không phải là chỗ trú có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú không có tỳ khưu ―(như trên)― (không nên) đi đến nơi không phải là chỗ trú không có tỳ khưu ―(như trên)― (không nên) đi đến chỗ trú hoặc nơi không phải là chỗ trú không có tỳ khưu, trừ phi (cùng đi) với vị tỳ khưu trong sạch, trừ phi có nguy hiểm.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu xứng đáng hình phạt mānatta từ chỗ trú hoặc nơi không phải là chỗ trú có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú không có tỳ khưu ―(như trên)― (không nên) đi đến nơi không phải là chỗ trú không có tỳ khưu ―(như trên)― (không nên) đi đến chỗ trú hoặc nơi không phải là chỗ trú không có tỳ khưu, trừ phi (cùng đi) với vị tỳ khưu trong sạch, trừ phi có nguy hiểm.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu xứng đáng hình phạt mānatta từ chỗ trú có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú có tỳ khưu nếu các tỳ khưu ở nơi ấy là không đồng cộng trú, trừ phi (cùng đi) với vị tỳ khưu trong sạch, trừ phi có nguy hiểm. ―(như trên)― (không nên) đi đến nơi không phải là chỗ trú có tỳ khưu ―(như trên)― (không nên) đi đến chỗ trú hoặc nơi không phải là chỗ trú có tỳ khưu nếu các tỳ khưu ở nơi ấy là không đồng cộng trú, trừ phi (cùng đi) với vị tỳ khưu trong sạch, trừ phi có nguy hiểm.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu xứng đáng hình phạt mānatta từ nơi không phải là chỗ trú có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú có tỳ khưu ―(như trên)― (không nên) đi đến nơi không phải là chỗ trú có tỳ khưu ―(như trên)― (không nên) đi đến chỗ trú hoặc nơi không phải là chỗ trú có tỳ khưu nếu các tỳ khưu ở nơi ấy là không đồng cộng trú, trừ phi (cùng đi) với vị tỳ khưu trong sạch, trừ phi có nguy hiểm.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu xứng đáng hình phạt mānatta từ chỗ trú hoặc nơi không phải là chỗ trú có tỳ khưu không nên đi đến chỗ trú có tỳ khưu ―(như trên)― (không nên) đi đến nơi không phải là chỗ trú có tỳ khưu ―(như trên)― (không nên) đi đến chỗ trú hoặc nơi không phải là chỗ trú có tỳ khưu nếu các tỳ khưu ở nơi ấy là không đồng cộng trú, trừ phi (cùng đi) với vị tỳ khưu trong sạch, trừ phi có nguy hiểm.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu xứng đáng hình phạt mānatta từ chỗ trú có tỳ khưu có thể đi đến chỗ trú có tỳ khưu nếu các tỳ khưu ở nơi ấy là đồng cộng trú và biết được rằng: ‘Ta có thể đi đến nội trong ngày nay.’ ―(như trên)― nơi không phải là chỗ trú có tỳ khưu ―(như trên)― chỗ trú hoặc nơi không phải là chỗ trú có tỳ khưu nếu các tỳ khưu ở nơi ấy là đồng cộng trú và biết được rằng: ‘Ta có thể đi đến nội trong ngày nay.’
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu xứng đáng hình phạt mānatta từ nơi không phải là chỗ trú có tỳ khưu có thể đi đến chỗ trú có tỳ khưu ―(như trên)― nơi không phải là chỗ trú có tỳ khưu ―(như trên)― chỗ trú hoặc nơi không phải là chỗ trú có tỳ khưu nếu các tỳ khưu ở nơi ấy là đồng cộng trú và biết được rằng: ‘Ta có thể đi đến nội trong ngày nay.’
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu xứng đáng hình phạt mānatta từ chỗ trú hoặc nơi không phải là chỗ trú có tỳ khưu có thể đi đến chỗ trú có tỳ khưu ―(như trên)― nơi không phải là chỗ trú có tỳ khưu ―(như trên)― chỗ trú hoặc nơi không phải là chỗ trú có tỳ khưu nếu các tỳ khưu ở nơi ấy là đồng cộng trú và biết được rằng: ‘Ta có thể đi đến nội trong ngày nay.’
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu xứng đáng hình phạt mānatta cùng với vị tỳ khưu trong sạch không nên cư ngụ chung ở chỗ trú cùng một mái che, không nên cư ngụ chung ở nơi không phải là chỗ trú cùng một mái che, không nên cư ngụ ở chỗ trú hoặc nơi không phải là chỗ trú cùng một mái che. Khi thấy vị tỳ khưu trong sạch nên từ chỗ ngồi đứng dậy. Vị tỳ khưu trong sạch nên được mời chỗ ngồi. Không nên ngồi chung một chỗ ngồi với vị tỳ khưu trong sạch, không nên ngồi trên chỗ ngồi cao (khi vị kia) ngồi ở chỗ ngồi thấp, không nên ngồi trên chỗ ngồi (khi vị kia) ngồi ở trên nền đất, không nên đi kinh hành chung một đường kinh hành, không nên đi kinh hành ở đường kinh hành cao (trong khi vị kia) đi kinh hành ở đường kinh hành thấp, không nên đi kinh hành ở đường kinh hành (trong khi vị kia) đi kinh hành ở trên mặt đất.
Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu xứng đáng hình phạt mānatta cùng với vị tỳ khưu hànhparivāsa ―(như trên)― cùng với vị tỳ khưu xứng đáng việc đưa về lại (hình phạt) ban đầu ―(như trên)― cùng với vị tỳ khưu xứng đáng hình phạt mānatta thâm niên hơn ―(như trên)― cùng với vị tỳ khưu thực hành mānatta ―(như trên)― cùng với vị tỳ khưu xứng đáng sự giải tội không nên cư ngụ chung ở chỗ trú cùng một mái che, không nên cư ngụ chung ở nơi không phải là chỗ trú cùng một mái che, không nên cư ngụ ở chỗ trú hoặc nơi không phải là chỗ trú cùng một mái che, không nên ngồi chung một chỗ ngồi, không nên ngồi trên chỗ ngồi cao (trong khi vị kia) ngồi ở chỗ ngồi thấp, không nên ngồi trên chỗ ngồi (khi vị kia) ngồi ở trên nền đất, không nên đi kinh hành chung một đường kinh hành, không nên đi kinh hành ở đường kinh hành cao (khi vị kia) đi kinh hành ở đường kinh hành thấp, không nên đi kinh hành ở đường kinh hành (trong khi vị kia) đi kinh hành ở trên mặt đất.
Này các tỳ khưu, nếu (nhóm) có vị thứ tư là vị xứng đáng hình phạt mānatta mà ban cho hình phạt parivāsa, đưa về lại (hình phạt) ban đầu, ban cho hình phạt mānatta, có vị ấy là vị thứ hai mươi mà giải tội, (như thế) không phải là hành sự và không nên thực hành.”
Dứt phận sự của vị xứng đáng hình phạt mānatta.
--ooOoo—
Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada