CHUYỆN NGẠ QUỶ

 

PHẨM UBBARĪ

 

2. 1 Chuyện Ngạ Quỷ Saṃsāramocaka

95.“Này cô nàng lòi cả xương sườn, gầy guộc, nàng là ai mà đứng ở nơi đây, lõa lồ, có vóc dáng xấu xí, ốm o, nổi đầy gân?”

 

96.“Thưa ngài đi đức, con là nữ ngạ quỷ bị đa đày, thuộc cõi Dạ-ma. Sau khi làm nghiệp ác, từ nơi đây con đã đi đến thế giới ngạ quỷ.”

 

97.“Vậy ác hạnh gì đã được làm, bởi thân bởi khẩu bởi ý? Do quả thành tựu của nghiệp gì mà từ nơi đây nàng đã đi đến thế giới ngạ quỷ?”

 

98.“Thưa ngài, cha và mẹ hoặc luôn cả các thân quyến đã không có lòng thương tưng đến con, họ không khuyến khích con rằng: ‘Con hãy dâng vật thí đến các Sa-môn và Bà-la-môn với tâm tịnh tín.’

 

99.Từ đây cho đến năm trăm năm, con lang thang, lõa lồ như thế này, trong khi bị ngấu nghiến bởi cơn đói và cơn khát; điều này là quả báo của nghiệp ác của con.

 

100.Thưa ch nhân, con xin đảnh lễ ngài với tâm tịnh tín. Thưa bc sáng trí, có đại oai lực, xin ngài hãy thương xót con. Xin ngài hãy bố thí bất cứ vật gì rồi chỉ định việc ấy là dành cho con. Thưa ngài đi đức, xin ngài hãy giải thoát con khỏi cảnh giới khổ đau.”

 

101.Sau khi đáp lại rằng: ‘Tốt lắm,’ vị Sāriputta ấy, bậc có lòng thương tưng, đã dâng đến các vị tỳ khưu vt cơm, mảnh vải cỡ bằng bàn tay, và tô nước uống, rồi đã chỉ định sự cúng dường là dành cho nữ ngạ quỷ ấy.

 

102.Khi được chỉ định thì quả thành tựu đã được sanh lên ngay lập tức: vật thực, y phục, nước uống; quả báo này là do sự cúng dường.

 

103.Do đó, nàng ấy (nữ ngạ quỷ) trở nên sạch sẽ, có y phục tinh khiết, có sự trang phục bằng vải hạng nhất của xứ Kāsī, có các đồ trang sức và các tấm vải nhiều màu sắc, đã đi đến gặp vị Sāriputta.

 

104.“Hỡi nàng tiên, nàng đứng, với màu da nổi bật, khiến cho khắp các phương sáng rc lên, ví như ngôi sao osadhī.

 

105.Do điều gì nàng có đưc màu da như thế ấy? Do điều gì mà (sự việc) được thành tựu cho nàng ở nơi đây? Và (do điều gì mà) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho nàng?

 

106.Hỡi nàng tiên có đại oai lực, ta hỏi nàng: ‘Khi là con ngưi, nàng đã làm việc phước thiện gì? Do điều gì mà nàng có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của nàng chiếu sáng khắp các phương?’”

 

107.“Bậc hiền trí, đấng bi mẫn ở thế gian, đã nhìn thấy con đây bị khổ sở, vàng vọt, ốm o, đói ăn, lõa lồ, có làn da nứt nẻ.

 

108.Ngài đã dâng đến các vị tỳ khưu vt cơm, mảnh vải cỡ bằng bàn tay, và tô nước uống, rồi đã chỉ định sự cúng dường là dành cho con.

 

109.Xin ngài hãy nhìn xem quả báo của vắt cơm: Con thọ dụng bữa ăn có nhiu hương vị trong một ngàn năm, là người có dục lạc theo như ước muốn.

 

110-111. Xin ngài hãy nhìn xem quả thành tựu của mảnh vải cỡ bằng bàn tay là như thế nào: Thưa ngài, các vải mặc ở lãnh thổ của đức vua Nanda nhiều chừng nào, thì các vải vóc và các y phục bằng tơ lụa, sợi len, sợi lanh, và bông vải của con còn nhiều hơn thế ấy.

 

112.Chúng dư thừa và có trị giá cao, hơn nữa chúng treo lủng lẳng ở không trung; con đây chỉ khoác vào cái nào thích ý.

 

113.Xin ngài hãy nhìn xem quả thành tựu của tô nước uống là như thế nào: Có các hồ sen sâu thẳm, hình chữ nhật, đã khéo được hóa hiện ra.

 

114.Có nước trong, có những bến bãi xinh đẹp, mát mẻ, có mùi thơm, được che phủ bởi nhiều loại sen hồng và sen xanh, tràn ngập nước và phấn hoa.

 

115.Con đây hưởng lạc, nô đùa, vui sướng, không có sự sợ hãi từ bất cứ đâu. Thưa ngài, con đi đến đ đảnh lễ bậc hiền trí, đấng bi mẫn ở thế gian.” 

Chuyện Ngạ Quỷ Saṃsāramocaka là thứ nhất.[7] 

2. 2 Chuyện Ngạ Quỷ - Mẹ của Trưởng Lão Sāriputta

 

116.“Này cô nàng lòi cả xương sườn, gầy guộc, nàng là ai mà đứng ở nơi đây, lõa lồ, có vóc dáng xấu xí, ốm o, nổi đầy gân?”

 

117.“Tôi là mẹ của ngài trong những kiếp sống khác trưc đây, đã bị sanh vào cảnh giới ngạ quỷ, bị gánh chịu sự đói khát.

 

118-119. Bị tác động bởi cơn đói, tôi ăn vật thuộc về người nữ và người nam: vật bị ói ra, vật bị khạc nhổ, nước miếng, nước mũi, đờm dãi, mỡ béo của những thi thể đang bị đốt cháy, và máu của những phụ nữ đang sanh, máu của những vết thương và của những vết cắt ở lỗ mũi và ở đầu.

 

120.Tôi có thức ăn là mủ máu của những loài thú nuôi và của những con người, không chốn nương ta, và không nơi cư trú, có chỗ nghỉ ngơi là chiếc giường xám xanh (dùng khiêng tử thi).

 

121.Này con trai, hãy cho tôi vật thí, sau khi bố thí xin ngài hãy chỉ định (việc ấy là) dành cho tôi; đưc như thế thì tôi có thể thoát khỏi việc thọ thực mủ và máu.”

 

122.Sau khi lắng nghe lời nói của người mẹ, vị Upatissa,[8] bậc có lòng thương tưng, đã thỉnh ý các vị Moggallāna, Anuruddha, và Kappina.

 

123.Sau khi thực hiện bốn liêu cốc, vị ấy đã dâng các liêu cốc và cơm ăn nước uống đến Hội Chúng bốn phương; vị ấy đã chỉ định sự cúng dưng là dành cho người mẹ.

 

124.Khi được chỉ định thì quả thành tựu đã được sanh lên ngay lập tức: vật thực, nước uống, vải vóc; quả báo này là do sự cúng dường.

 

125.Do đó, nàng ấy (nữ ngạ quỷ) trở nên sạch sẽ, có y phục tinh khiết, có sự trang phục bằng vải hạng nhất của xứ Kāsī, có các đồ trang sức và các tấm vải nhiều màu sắc, đã đi đến gặp vị Kolita.

 

126.“Hỡi nàng tiên, nàng đứng, với màu da nổi bật, khiến cho khắp các phương sáng rc lên, ví như ngôi sao osadhī.

 

127.Do điều gì nàng có đưc màu da như thế ấy? Do điều gì mà (sự việc) được thành tựu cho nàng ở nơi đây? Và (do điều gì mà) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho nàng?

 

128.Hỡi nàng tiên có đại oai lực, ta hỏi nàng: ‘Khi là con ngưi, nàng đã làm việc phước thiện gì? Do điều gì mà nàng có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của nàng chiếu sáng khắp các phương?’”

 

129.“Tôi là mẹ của Sāriputta trong những kiếp sống khác trưc đây, đã bị sanh vào cảnh giới ngạ quỷ, bị gánh chịu sự đói khát.

 

130-131. Bị tác động bởi cơn đói, tôi ăn vật thuộc về người nữ và người nam: vật bị ói ra, vật bị khạc nhổ, nước miếng, nước mũi, đờm dãi, mỡ béo của những thi thể đang bị đốt cháy, và máu của những phụ nữ đang sanh, máu của những vết thương và của những vết cắt ở lỗ mũi và ở đầu.

 

132.Tôi có thức ăn là mủ máu của những loài thú nuôi và của những con người, không chốn nương ta, và không nơi cư trú, có chỗ nghỉ ngơi là chiếc giường xám xanh (dùng khiêng tử thi).

 

133.Nhờ vào sự bố thí của Sāriputta, tôi vui sướng, không có sự sợ hãi từ bất cứ đâu. Thưa ngài, tôi đi đến đ đảnh lễ bậc hiền trí, đấng bi mẫn ở thế gian.” 

Chuyện Ngạ Quỷ - Mẹ của Trưởng Lão Sāriputta là thứ nhì.[9] 

2. 3 Chuyện Ngạ Quỷ Mattā

 

134.“Này cô nàng lòi cả xương sườn, gầy guộc, nàng là ai mà đứng ở nơi đây, lõa lồ, có vóc dáng xấu xí, ốm o, nổi đầy gân?”

 

135.“Tôi là Mattā, cô là Tissā, trưc đây tôi đã là người vợ chung chồng với cô. Sau khi làm nghiệp ác, từ nơi đây tôi đã đi đến thế giới ngạ quỷ.”

 

136.“Vậy ác hạnh gì đã được làm, bởi thân bởi khẩu bởi ý? Do quả thành tựu của nghiệp gì mà từ nơi đây chị đã đi đến thế giới ngạ quỷ?”

 

137.“Tôi đã là người nhẫn tâm, thô lỗ, ganh tỵ, bỏn xẻn, và xảo quyệt. Sau khi nói lời tồi tệ với cô, tôi đã đi đến thế giới ngạ quỷ.”

 

138.“Em cũng biết tất cả, chị đã là người nhẫn tâm như thế nào. Nhưng giờ em hỏi chị việc khác, do việc gì chị bị bao phủ bởi bụi đất?”

 

139.“Cô đã gội đầu xong, có y phục sạch sẽ, đã đưc trang điểm, và tôi còn hơn c cô, đã đưc trang đim hơn cả cô.

 

140.Cô đã chuyện trò với chồng trong khi tôi đây đang quan sát; vì thế, tôi đã có sự ganh tỵ lớn lao, sự phẫn nộ đã nổi lên ở tôi.

 

141.Kế đó, tôi đã hốt bụi đt và đã trút bụi đất xuống chính cô; do quả thành tựu của nghiệp ấy, do việc ấy tôi bị bao phủ bởi bụi đất.”

 

142.“Em cũng biết tất cả, chị đã trút bụi đất xuống em. Nhưng giờ em hỏi chị việc khác, do việc gì chị bị day dứt bởi mụn ghẻ?”

 

143.“Là những ngưi thu hái dược liệu, cả hai chúng ta đã đi vào trong rng. Cô đã thu hái dược liệu, còn tôi đã thu hái loại cây kapikacchu.[10]

 

144.Trong khi cô đây không hay biết, tôi đã rải rắc (kapikacchu) xuống giường của cô; do quả thành tựu của nghiệp ấy, do việc ấy tôi bị day dứt bởi mụn ghẻ.”

 

145.“Em cũng biết tất cả, chị đã rải rắc (kapikacchu) xuống giường của em. Nhưng giờ em hỏi chị việc khác, do việc gì chị bị lõa lồ?”

 

146.“Đã có cuộc gặp gỡ của các thân hữu, là cuộc hội họp của các thân quyến, và cô đã được mời cùng với người chồng (chung), còn tôi thì không.

 

147.Trong khi cô đây không hay biết, tôi đã giấu đi y phục của cô; do quả thành tựu của nghiệp ấy, do việc ấy tôi bị lõa lồ.”

 

148.“Em cũng biết tất cả, chị đã giấu đi y phục của em. Nhưng giờ em hỏi chị việc khác, do việc gì chị có mùi của phân?”

 

149.“Tôi đã ném bỏ vật thơm, tràng hoa, và du thoa đắt giá của cô vào hố phân, việc xấu xa ấy đã do tôi gây ra; do quả thành tựu của nghiệp ấy, do việc ấy tôi có mùi của phân.”

 

150.“Em cũng biết tất cả, việc xấu xa ấy đã do chị gây ra. Nhưng giờ em hỏi chị việc khác, do việc gì chị bị đọa vào khổ cảnh?”

 

151.“Tài sản hiện có trong nhà đã là thuộc về cả hai một cách bình đẳng. Trong khi các vật bố thí đang hiện hữu, tôi đã không tạo lập hòn đo (nương nhờ) cho bản thân; do quả thành tựu của nghiệp ấy, do việc ấy tôi bị đọa vào khổ cảnh.

 

152.Chính vào lúc ấy, cô đã nói với tôi rằng: ‘Chị theo đuổi nghiệp ác, bởi vì với những nghiệp ác, nhàn cảnh là không dễ đt được.’”

 

153.“Chị đến với em bằng cách chống đối, và còn ganh tỵ với em nữa. Chị hãy nhìn xem quả thành tựu của những nghiệp ác là như thế nào.

 

154.Nhà cửa và các tớ gái ấy, luôn cả các đồ trang sức này đã là của chị, và chúng đang phục vụ những kẻ khác; các của cải là không trường cửu.

 

155.Giờ này, cha của Bhūta từ chợ đi về nhà có lẽ sẽ bố thí cho chị vật gì đó; cho đến khi ấy chị chớ rời khỏi đây.”

 

156.“Tôi thì lõa lồ, có vóc dáng xấu xí, gầy guộc, nổi đầy gân. Việc này là điều xấu hổ của hàng phụ nữ; chớ để cha của Bhūta nhìn thấy tôi.”

 

157.“Nào, vật gì em sẽ biếu chị, hoặc là điều gì em làm cho chị, qua đó chị có thể được hạnh phúc, có sự thành tựu mọi điều mong mỏi?”

 

158.“Bốn vị tỳ khưu (thỉnh) từ Hội Chúng, và bốn vị nữa (thỉnh) cá nhân, sau khi dâng bữa ăn đến tám vị tỳ khưu, hãy chỉ định sự cúng dường là dành cho tôi. Khi ấy, tôi sẽ được hạnh phúc, có sự thành tựu mọi điều mong mỏi.”

 

159.“Tốt lắm!” Sau khi thỏa thuận, nàng ấy đã dâng bữa ăn đến tám vị tỳ khưu, đã khoác lên (các vị) với những tấm vải, rồi đã chỉ định sự cúng ờng là dành cho nữ ngạ quỷ ấy.

 

160.Khi được chỉ định thì quả thành tựu đã được sanh lên ngay lập tức: vật thực, y phục, nước uống; quả báo này là do sự cúng dường.

 

161.Do đó, nàng ấy (nữ ngạ quỷ) trở nên sạch sẽ, có y phục tinh khiết, có sự trang phục bằng vải hạng nhất của xứ Kāsī, có các đồ trang sức và các tấm vải nhiều màu sắc, đã đi đến gặp người nữ có chung chồng.

 

162.“Hỡi nàng tiên, nàng đứng, với màu da nổi bật, khiến cho khắp các phương sáng rc lên, ví như ngôi sao osadhī.

 

163.Do điều gì nàng có đưc màu da như thế ấy? Do điều gì mà (sự việc) được thành tựu cho nàng ở nơi đây? Và (do điều gì mà) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho nàng?

 

164.Hỡi nàng tiên có đại oai lực, tôi hỏi nàng: ‘Khi là con ngưi, nàng đã làm việc phước thiện gì? Do điều gì mà nàng có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của nàng chiếu sáng khắp các phương?’”

 

165.“Tôi là Mattā, cô là Tissā, trưc đây tôi đã là người vợ có chung chồng với cô. Sau khi làm nghiệp ác, từ nơi đây tôi đã đi đến thế giới ngạ quỷ.”

 

166.Nhờ vào vật thí đã đưc cô dâng cúng, tôi vui sướng, không có sự sợ hãi từ bất cứ đâu. Này em gái, mong rằng cô sống thọ cùng với tất cả thân quyến.

 

167.Nơi chốn không sầu muộn, xa lìa luyến ái, là chỗ trú ngụ của các vị có quyền lực. Này ngưi đẹp, ở đây sau khi thực hành Giáo Pháp, sau khi dâng cúng vật thí, sau khi loại trừ ô nhiễm của sự bỏn xẻn luôn cả gốc rễ, không bị chê trách, mong rằng cô đi đến nơi chốn cõi Trời.”

Chuyện Ngạ Quỷ Mattā là thứ ba.[11]

2. 4 Chuyện Ngạ Quỷ Nandā

 

168.“Nàng đen đủi, có vóc dáng xấu xí, thô kệch, có dáng vẻ ghê rợn, có mắt đỏ ngầu, có răng vàng khè, tôi nghĩ rằng nàng không phải loài người?”

 

169.“Này Nandasena, tôi là Nandā, trưc đây tôi đã là vợ của ông. Sau khi làm nghiệp ác, từ nơi đây tôi đã đi đến thế giới ngạ quỷ.”

 

170.“Vậy ác hạnh gì đã được làm, bởi thân bởi khẩu bởi ý? Do quả thành tựu của nghiệp gì mà từ nơi đây nàng đã đi đến thế giới ngạ quỷ?”

 

171.Tôi đã là người nhẫn tâm, có lời nói thô lỗ, không tôn trọng ông. Sau khi nói lời tồi tệ với ông, tôi đã đi đến thế giới ngạ quỷ.”

 

172.“Này, tôi cho nàng tấm choàng. Nàng hãy quấn mảnh vải này vào. Sau khi quấn vào mảnh vải này, hãy đi đến, ta sẽ đưa nàng về nhà.

 

173.Khi nàng đã đi đến nhà, nàng sẽ nhận được y phục, cơm ăn và nước uống. Nàng sẽ trông thấy những đứa con trai của nàng, và nhìn xem những cô con dâu.”

 

174-175. “Vật thí của ông dầu tay trao tay vẫn không lợi ích cho tôi. Ông hãy làm toại ý các vị tỳ khưu đầy đủ giới hạnh, đã lìa luyến ái, có sự nghe nhiều (học rộng), với cơm ăn và nước uống, rồi chỉ định sự cúng dường là dành cho tôi. Khi ấy, tôi sẽ được hạnh phúc, có sự thành tựu tất cả các dục lạc.”

 

176-177. “Tốt lắm!” Sau khi thỏa thuận, vị ấy đã thực hiện dồi dào vật thí: cơm ăn, nước uống, vật thực cứng, vải vóc, chỗ trú ngụ, lọng che, vật thơm, tràng hoa, và nhiều loại giày dép. Sau khi làm toại ý các vị tỳ khưu đầy đủ giới hạnh, đã lìa luyến ái, có sự nghe nhiều (học rộng), với cơm ăn và nước uống, rồi đã chỉ định sự cúng dường là dành cho nữ ngạ quỷ ấy.

 

178.Khi được chỉ định thì quả thành tựu đã được sanh lên ngay lập tức: vật thực, y phục, nước uống; quả báo này là do sự cúng dường.

 

179.Do đó, nàng ấy (nữ ngạ quỷ) trở nên sạch sẽ, có y phục tinh khiết, có sự trang phục bằng vải hạng nhất của xứ Kāsī, có các đồ trang sức và các tấm vải nhiều màu sắc, đã đi đến gặp người chồng.

 

180.“Hỡi nàng tiên, nàng đứng, với màu da nổi bật, khiến cho khắp các phương sáng rc lên, ví như ngôi sao osadhī.

 

181.Do điều gì nàng có đưc màu da như thế ấy? Do điều gì mà (sự việc) được thành tựu cho nàng ở nơi đây? Và (do điều gì mà) các sự hưởng thụ thích ý sanh lên cho nàng?

 

182.Hỡi nàng tiên có đại oai lực, tôi hỏi nàng: ‘Khi là con ngưi, nàng đã làm việc phước thiện gì? Do điều gì mà nàng có oai lực được rực sáng như vầy, và màu da của nàng chiếu sáng khắp các phương?’”

 

183.“Này Nandasena, tôi là Nandā, trưc đây tôi đã là vợ của chàng. Sau khi làm nghiệp ác, từ nơi đây tôi đã đi đến thế giới ngạ quỷ.

 

184.Nhờ vào vật thí đã được chàng dâng cúng, tôi vui sướng, không có sự sợ hãi từ bất cứ đâu. Này gia chủ, mong rằng chàng sống thọ cùng với tất cả thân quyến.

 

185.Nơi chốn không sầu muộn, xa lìa luyến ái, là chỗ trú ngụ của các vị có quyền lực. Này gia chủ, ở đây sau khi thực hành Giáo Pháp, sau khi dâng cúng vật thí, sau khi loại trừ ô nhiễm của sự bỏn xẻn luôn cả gốc rễ, không bị chê trách, mong rằng chàng đi đến nơi chốn cõi Trời.”

Chuyện Ngạ Quỷ Nandā là thứ tư.[12]

2. 5 Chuyện Ngạ Quỷ Maṭṭakuṇḍalī

186.“Ngươi đã đưc trang đim, có bông tai đã đưc đánh bóng, có mang tràng hoa, có bôi xức trầm hương màu vàng, sau khi giơ hai cánh tay lên rồi than khóc ở giữa khu rừng, ngươi bị khổ đau điều gì?”[13]

 

187.“Khung xe làm bằng vàng, rực rỡ, được phát sanh lên cho tôi. Tôi không tìm ra cặp bánh xe cho nó. Vì nỗi khổ đau ấy, tôi sẽ từ bỏ mạng sống.”

 

188.“Nó làm bằng vàng, làm bằng ngọc ma-ni, làm bằng hồng ngọc, hay làm bằng bạc? Này người thanh niên hiền thiện, ngươi hãy nói với ta. Ta sẽ giúp cho ngươi đt được cặp bánh xe.”

 

189.Người thanh niên ấy đã nói với ông ấy rằng: “Ở đây, mt trăng và mặt trời được nhìn thấy; cỗ xe của tôi, làm bằng vàng, được chói sáng với cặp bánh xe ấy.”

 

190.“Này ngưi thanh niên, ngươi quả thật khờ dại, ngươi mong mỏi vật không thể mong mỏi. Ta nghĩ rằng ngươi sẽ chết bởi vì ngươi s không đt được mặt trăng và mặt trời.”

 

191.“Việc đi và đến (của mặt trăng và mặt trời) còn được nhìn thấy. Ở đây, màu sắc và bản chất của cả hai là theo trình tự. Trái lại, người chết, đã qua đi, không được nhìn thấy. Vậy ở đây, trong hai ngưi đang khóc lóc, người nào khờ dại hơn?”

 

192.“Này người thanh niên, quả nhiên ngươi nói đúng sự thật. Trong hai ngưi đang khóc lóc, chính ta là khờ dại hơn. Ta đang mong mi người chết, đã qua đi, ví như đa bé trai đang khóc đòi mặt trăng.”

 

193.“Quả thật, trong khi tôi đang b thiêu đốt tựa như ngọn lửa đưc rưi bơ lng, người ấy có thể dập tắt tất cả nỗi buồn bực như là đang rưi nước xuống.

 

194.Khi tôi bị sầu muộn chế ngự, ngưi nào đã xua đi nỗi sầu muộn về người con trai của tôi, người ấy quả thật đã rút ra mũi tên sầu muộn đã cắm vào trái tim của tôi.

 

195.Chính tôi đây, có mũi tên đã được rút ra, có trạng thái mát lạnh, đã được an tịnh. Này người thanh niên, sau khi lắng nghe ngươi, tôi không sầu muộn, không khóc lóc.”[14]

 

196.“Phải chăng ngươi là Thiên nhân, là nhc sĩ Thiên đình, hay là (Chúa Trời) Sakka, ngưi đã bố thí trưc đây? Ngươi là ai, hay là con trai của ai, làm thế nào chúng tôi có thể nhận biết ngươi?”

 

197.“Đa con trai nào mà ông đã tự mình thiêu đốt ở nơi hỏa táng rồi than vãn và khóc lóc, người ấy chính là tôi; sau khi làm việc thiện, tôi đã đt đến sự cộng trú ở cõi Ba Mươi (Ba).”

 

198.“Chúng tôi đã không nhìn thấy vật thí ít hay nhiều của ngươi trong khi ngươi bố thí ở nhà mình, hay việc làm vào ngày trai giới tương t như thế ấy; do nghiệp nào mà ngươi đã đi đến thế giới của chư Thiên?”

 

199.“Tôi là người có bệnh, bị khổ sở, là người bệnh, có dáng vóc bệnh hoạn ở trong căn nhà của mình. Tôi đã nhìn thấy đức Phật, bậc đã xa lìa ô nhiễm, vị đã vượt qua hoài nghi, đấng Thiện Thệ, có trí tuệ tuyệt vời.

 

200.Chính tôi đây, với ý vui mừng, với tâm tịnh tín, đã thực hiện việc chắp tay đến đc Như Lai. Sau khi làm việc thiện ấy, tôi đã đt đến sự cộng trú ở cõi Ba Mươi (Ba).”

 

201.“Thật là kỳ diệu, phi thường! Quả thành tựu này của việc chắp tay là như thế. Tôi cũng vậy, với ý vui mừng, với tâm tịnh tín, tôi đi đến nương nh đức Phật ngay ngày hôm nay.”

 

202.“Ngay ngày hôm nay, với tâm tịnh tín ông hãy đi đến nương nh đức Phật, Giáo Pháp, và Hội Chúng. Tương t y như thế, ông hãy thọ trì năm điều học không bị bể vỡ hay sứt mẻ.

 

203.Ông hãy lập tức kiêng chừa việc giết hại mạng sống, hãy xa lánh vật chưa được cho (việc trộm cắp) ở trên đời, chớ có việc uống chất say và nói lời dối trá, và hãy vui thích (chỉ) với người vợ của mình.”

 

204.“Thưa vị Dạ-xoa, ngài là người mong mỏi sự tốt đp cho tôi. Thưa v Thiên nhân, ngài là người mong mỏi sự lợi ích cho tôi. Tôi thực hành lời nói của ngài; ngài là thầy dạy học của tôi.

 

205.Tôi đi đến nương nh đức Phật, luôn cả Giáo Pháp vô thưng, và tôi đi đến nương nhờ Hội Chúng thuộc về vị Trời của nhân loại.

 

206.Tôi lập tức kiêng chừa việc giết hại mạng sống, tôi xa lánh vật chưa được cho (việc trộm cắp) ở trên đời, không có việc uống chất say, và tôi không nói lời dối trá, và tôi vui thích (chỉ) với người vợ của mình.”

 Chuyện Ngạ Quỷ Maṭṭakuṇḍalī là thứ năm.

 2. 6 Chuyện Ngạ Quỷ của Kaṇha

 

207.“Này Kaṇha, hãy đứng dậy. Việc gì ngài lại nằm? Lợi ích gì cho ngài với việc chiêm bao? Và này Kesava, người em trai ruột, trái tim và con mắt phải của ngài, cậu ấy bị các cơn gió xâm nhập, rồi lẩm bẩm về con thỏ.”

 

208.Sau khi lắng nghe lời nói ấy của vị Rohiṇeyya ấy, Kesava đã đứng dậy với vẻ vội vã, bị khổ sở bởi nỗi sầu muộn về người em trai.

 

209.“Có phải em, tựa như ngưi điên (đi lang thang) khắp cả Dvāravatī này, lải nhải rằng: ‘Con thỏ, con thỏ.’ Em thích con thỏ loại như thế nào?

 

210.Anh sẽ bảo làm cho em con thỏ; nó làm bằng vàng, làm bằng ngọc ma-ni, làm bằng hồng ngọc, làm bằng bạc, hay làm bằng đá quý san hô?

 

211.Cũng có những loài thỏ nhỏ khác ở rừng, sinh sống ở trong rừng, chúng ta cũng sẽ bắt chúng về. Em thích con thỏ loại như thế nào?”

 

212.“Em không thích những con thỏ ấy, những con thỏ nương náu  trái đất, em thích con thỏ từ mặt trăng. Này Kesava, hãy mang nó lại cho em.”

 

213.“Này ngưi bà con, đúng là em đây sẽ lìa bỏ cuộc sống ngọt ngào. Em mong mỏi vật không thể mong mỏi, em thích con thỏ từ mặt trăng.”

 

214.“Này Kaṇha, nếu anh biết là như vậy thì anh mới nên khuyên bảo ngưi khác như thế; tại sao đến bây giờ anh vẫn sầu muộn về đa con trai đã chết trưc đây?

 

215.Những việc nào không thể đt được bởi con người hoặc ngay cả phi nhân (như là): ‘Mong rằng đa con trai đã được sanh ra của tôi đừng chết,’ do đâu mà điều không thể đt được sẽ trở nên đt được?

 

216.Này Kaṇha, không thể đưa người quá vãng mà anh sầu muộn trở về bằng chú thuật, bằng thuốc men từ rễ cây, bằng các thần dược, hoặc bằng tài sản.

 

217.Những người có tài sản lớn, có của cải lớn, thậm chí những Sát-đế-lỵ cai quản vương quốc, có dồi dào tài sản và lúa gạo, ngay cả những người ấy cũng không phải là không già không chết.

 

218.Các vị Sát-đế-lỵ, Bà-la-môn, thương buôn, nô lệ, hạ tiện, hốt rác, những người này và những người khác là do sự sanh ra, ngay cả những người ấy cũng không phải là không già không chết.

 

219.Những người nào trì tụng chú thuật (Vệ Đà) gồm sáu phần đã được nghĩ ra bởi đng Brahmā, nhng người này và những người khác là do sự sanh ra, ngay cả những người ấy cũng không phải là không già không chết.

 

220.Hoặc ngay cả những vị ẩn sĩ là các đạo sĩ khổ hạnh, có sự an tịnh, có bản thân đã được kiềm chế, ngay cả những vị đạo sĩ khổ hạnh ấy cũng lìa bỏ cơ thể theo thời gian.

 

221.Ngay cả những vị A-la-hán có bản thân đã được tu tập, có phận sự đã được làm xong, không còn lậu hoặc, cũng quăng bỏ thân xác này do sự diệt tận của thiện và ác.”

 

222.“Quả thật, trong khi tôi đang b thiêu đốt tựa như ngọn lửa đưc rưi bơ lng, người ấy có thể dập tắt tất cả nỗi buồn bực như là đang rưi nước xuống.

 

223.Khi tôi bị sầu muộn chế ngự, ngưi nào đã xua đi nỗi sầu muộn về người con trai của tôi, người ấy quả thật đã rút ra mũi tên sầu muộn đã cắm vào trái tim của tôi.

 

224.Chính tôi đây, có mũi tên đã được rút ra, có trạng thái mát lạnh, đã được an tịnh. Này em trai, sau khi lắng nghe em, anh không sầu muộn, không khóc lóc.”

 

225.Những bậc có trí tuệ hành xử như thế, họ là những bậc có lòng thương tưởng; các vị giúp cho vượt qua nỗi sầu muộn, tựa như Ghata (đã làm) đối với người anh trai vậy.

 

226.Người nào có những người cộng sự, những người hầu cận như thế ấy, tháp tùng với lời nói khôn khéo, tựa như Ghaa (đã làm) đối với người anh trai vậy.”

Chuyện Ngạ Quỷ của Kaṇha là thứ sáu. 

2. 7 Chuyện Ngạ Quỷ Dhanapāla

 

227.“Ông lõa lồ, có vóc dáng xấu xí, ốm o, nổi đầy gân, lòi cả xương sườn, gầy guộc. Này ông, vậy thì ông là ai?”

 

228.“Thưa quý ngài, tôi là ngạ quỷ bị đa đày, thuộc cõi Dạ-ma. Sau khi làm nghiệp ác, từ nơi đây tôi đã đi đến thế giới ngạ quỷ.”

 

229.“Vậy ác hạnh gì đã được làm, bởi thân bởi khẩu bởi ý? Do quả thành tựu của nghiệp gì mà từ nơi đây ông đã đi đến thế giới ngạ quỷ?”

 

230.“Có thành phố thuộc xứ sở Dasanna được biết tiếng là Erakaccha. Tại nơi y, trưc đây tôi đã là nhà đại phú; mọi ngưi đã biết tôi là ‘Dhanapāla.’

 

231.Tôi đã có tám mươi xe tải vàng thô; tôi có dồi dào vàng ròng, nhiều ngọc trai ngọc bích.

 

232.Cho dầu có tài sản lớn đến chừng ấy, sự yêu thích bố thí đã không có đối với tôi. Tôi đóng cửa lớn rồi mới ăn (nghĩ rằng): ‘Chớ để cho những kẻ ăn xin nhìn thấy ta.’

 

233.Tôi đã là ngưi không có đức tin, bỏn xẻn, keo kiệt, là kẻ mắng nhiếc. Tôi đã cản ngăn nhiều người trong lúc họ đang bố thí, trong lúc họ đang thực hành (việc thu thúc, nói rằng):

 

234-235. ‘Không có quả thành tựu của việc bố thí, từ đâu có quả báo của việc thu thúc?’ Tôi đã phá hủy các hồ sen, các giếng nước, các khu vườn đã được trồng trọt, các trạm bố thí nước uống, và các lối vượt qua ở nơi hiểm trở. Tôi đây đã không làm việc tốt, đã làm việc ác, sau đó đã chết đi.

 

236-237. Tôi đã bị sanh vào cảnh giới ngạ quỷ, bị gánh chịu sự đói khát. Năm mươi lăm năm kể từ khi tôi đã qua đời, tôi không biết đến việc đã được ăn hay là đã được uống nước. Cái gì là sự đeo níu, cái ấy là sự hư hỏng; cái gì là sự hư hỏng, cái ấy là sự đeo níu.

 

238.Nghe nói chính các ngạ quỷ biết rằng: ‘Cái gì là sự đeo níu, cái ấy là sự hư hng.’ Trưc đây, tôi đã đeo níu, tôi đã không bố thí trong khi có nhiều tài sản.

 

239.Trong khi các vật bố thí đang hiện hữu, tôi đã không tạo lập hòn đo (nương nhờ) cho bản thân; về sau tôi đây hối tiếc, khi gánh lấy hậu quả của nghiệp thuộc về bản thân.

 

240.Bốn tháng nữa, tôi sẽ chết. Tôi sẽ rơi vào địa ngục vô cùng khổ sở, ghê rợn.

 

241.Địa ngục có bốn góc, có bốn cửa, được phân chia thành các phần cân xứng, được bao quanh bằng tường sắt, đưc đậy lại bằng tấm sắt.

 

242.Mặt nền của nó làm bằng sắt, cháy rực, có sức nóng, tỏa rộng ra xung quanh một trăm do-tuần, và luôn luôn tồn tại.

 

243.Tại nơi ấy, trong thời gian dài tôi sẽ cảm thọ khổ, quả báo của nghiệp ác; vì thế tôi vô cùng sầu muộn.

 

244.Vì vậy, tôi nói với quý vị rằng: ‘Mong rằng điều tốt lành cho tất cả quý vị đã tụ hội ở đây. Quý vị chớ làm việc ác dầu là lộ liễu hay khuất lấp.

 

245.Bởi vì, nếu quý vị sẽ làm hoặc đang làm nghip ác, đối với quý vị sẽ không có sự thoát khỏi khổ đau, cho dầu quý vị bay lên trời chạy trốn.

 

246.Quý vị hãy thể hiện sự phục vụ mẹ, sự phục vụ cha, sự tôn kính các bậc trưng thượng trong gia tộc, hãy thể hiện sự tôn kính các Sa-môn, các Bà-la-môn, như vậy quý vị sẽ đi đến cõi Trời.”

 Chuyện Ngạ Quỷ Dhanapāla là thứ bảy.

2. 8 Chuyện Ngạ Quỷ Cullaseṭṭhi

 

247.“Thưa ngài, ngài là vị xuất gia, lõa lồ, ốm o. Ban đêm ngài đi đâu? Với lý do của việc gì? Xin ngài hãy nói với trẫm điều ấy, chúng tôi cũng có khả năng; trẫm có thể chu cấp cho ngài của cải cùng với mọi thứ.”[15]

 

248.“Thành phố Bārāasī được tiếng vang đồn xa. Ở tại nơi y, tôi là người gia chủ giàu có, bủn xỉn, không bố thí, có tâm ham muốn về vật chất. Do bản tính xấu xa, tôi đã đi đến cảnh giới của Dạ-ma.

 

249.Vì những việc ấy, tôi đây bị khổ nhọc vì sự châm chích (bởi đói). Chính vì điều ấy, tôi đi đến nơi các thân quyến vì nguyên nhân vật thực. Nhưng họ không có bản tính bố thí, và không tin là có quả báo của sự bố thí trong đời sau.

 

250.Còn người con gái của tôi thường xuyên nói rằng: ‘Con sẽ dâng cúng vật thí đến các bậc cha ông.’ Họ đang cung phụng vật đã được chuẩn bị đến các vị Bà-la-môn, tôi đi đến Andhakavinda để thọ hưởng.”

 

251.Đc vua đã nói với ngạ quỷ ấy rằng: ‘Sau khi hưởng thụ vật ấy xong, ngài nên mau mau trở lại; trẫm cũng sẽ thực hiện việc cúng dường. Nếu có nguyên do, xin ngài hãy nói điều ấy với trẫm. Trẫm lắng nghe lời nói về nguyên do đáng được tin tưởng.’

 

252.Sau khi nói rằng: ‘Như vy đi,’ ngạ quỷ ấy đã đi đến nơi ấy. Các vị Bà-la-môn đã thọ dụng bữa ăn, tuy nhiên họ không xứng đáng với sự cúng dường. Ngạ quỷ ấy đã quay trở lại Rājagaha lần nữa, rồi đã hiện ra phía trước vị lãnh đạo dân chúng.

 

253.Sau khi nhìn thấy ngạ quỷ đã đi đến thêm lần nữa, đc vua đã nói rằng: ‘Trẫm sẽ bố thí vật gì đây? Nếu có nguyên do, xin ngài hãy nói điều ấy với trẫm, nhờ đó ngài có th được thỏa mãn lâu dài.’

 

254.‘Thưa đức vua, sau khi cung phụng đức Phật và hội chúng bằng cơm ăn, luôn c nước uống, và y phục, ngài hãy chỉ định sự cúng dường ấy nhằm sự lợi ích cho tôi; như vậy tôi có thể được thỏa mãn lâu dài.’

 

255.Vì thế, liền khi ấy đc vua đã đi xung. Sau khi đã tự tay dâng cúng vật thí vô song đến Hội Chúng, đức vua đã thuật lại sự việc đến đức Thế Tôn và đã chỉ định sự cúng dưng đến ngạ quỷ ấy.

 

256.Đưc cúng dường, ngạ quỷ ấy đã hiện ra phía trước vị lãnh đạo dân chúng, chói sáng vô cùng (nói rằng): ‘Tôi trở thành vị Dạ-xoa, đt được thần thông tối thắng; loài người không sánh bằng hay tương đương với thần thông của tôi.

 

257.Xin đức vua hãy nhìn xem năng lc vô lượng này của tôi do ngài đã chỉ định sau khi dâng cúng vật vô song đến Hội Chúng; tôi thưng xuyên được toại ý vào mọi lúc nhờ vào nhiều (vật thí của ngài). Thưa vị chúa của loài ngưi, đã được hạnh phúc, tôi xin ra đi.”

 Chuyện Ngạ Quỷ Cullaseṭṭhi là thứ tám.

TỤNG PHẨM THỨ NHẤT.

2. 9 Chuyện Ngạ Quỷ của Aṅkura

 

258.“Vì mục đích của việc (buôn bán) ấy mà chúng ta mang theo tài sản đi đến Kamboja. Dạ-xoa này (có khả năng) ban cho điu ước muốn, vậy chúng ta nên dẫn theo Dạ-xoa này.

 

259.Chúng ta hãy giữ lấy Dạ-xoa này, bằng cách tốt đẹp hoặc là bằng võ lực, rồi cho ngưi đưa lên xe, và hãy mau mau đi đến Dvāravatī.”[16]

 

260.“Người ngồi hoặc nằm ở bóng râm của thân cây nào thì không nên bẻ gãy cành của nó, bởi vì phản bội bạn bè là xấu xa.”

 

261.“Người ngồi hoặc nằm ở bóng râm của thân cây nào thì có thể đốn ngã luôn cả thân của nó nếu nhu cầu là như thế ấy.”

 

262.“Người ngồi hoặc nằm ở bóng râm của thân cây nào thì không nên bẻ gãy lá của nó, bởi vì phản bội bạn bè là xấu xa.”

 

263.“Người ngồi hoặc nằm ở bóng râm của thân cây nào thì có thể bứng nó lên luôn cả gốc nếu nhu cầu là như thế ấy.”

 

264.“Ngưi cư ngụ trong ngôi nhà của ai đó cho dầu chỉ một đêm và thọ nhận cơm ăn nước uống ở nơi ấy, thì không nên suy nghĩ đến điều xấu xa đối với vị (chủ nhà) ấy dầu chỉ bằng tâm ý; trạng thái biết ơn đã được các bậc chân nhân ca ngợi.

 

265.Ngưi cư ngụ trong ngôi nhà của ai đó cho dầu chỉ một đêm và được phục vụ cơm ăn nước uống, thì không nên suy nghĩ đến điều xấu xa đối với vị (chủ nhà) ấy dầu chỉ bằng tâm ý; bàn tay của người không phản bội tiêu diệt kẻ phản bội bạn bè.

 

266.Kẻ nào trưc đây có việc tốt lành đã đưc (người khác) làm (cho mình) về sau hãm hại (ân nhân) một cách đc ác, người giết hại mạng sống ân nhân, kẻ ấy không gặp những điều may mắn.”

 

267.“Kẻ nào mắng nhiếc người trong sạch, không bị hư hỏng, không có vết nhơ, điều xấu xa trở về lại chính kẻ ngu ấy, tựa như bụi bặm nhỏ nhoi đã đưc ném ngược chiều gió.”[17]

 

268.“Ta không dễ dàng bị khuất phục bởi vị Thiên nhân, hoặc bởi con người, hoặc bởi quyền uy. Ta là Dạ-xoa, đã đt đến thần lực tối cao, có sự di chuyển xa, đã đt được sắc đẹp và sức mạnh.”[18]

 

269.“Bàn tay của ngài là vàng toàn bộ, năm ngón tay là nguồn mật ngọt, có nhiều dịch chất tiết ra; tôi nghĩ rằng ngài là (Chúa Trời) Purindada (ngưi đã bố thí trưc đây).”

 

270.“Ta không là Thiên nhân, không là nhạc sĩ Thiên đình, cũng không là (Chúa Trời) Sakka, ngưi đã bố thí trưc đây. Này Aṅkura, hãy biết ta là ngạ quỷ đã từ Bheruva đi đến nơi này.”

 

271.“Trưc đây  Bheruva ngài đã có giới hạnh gì, có sự thực hành gì? Do hạnh kiểm cao đẹp nào của ngài mà phưc báu được thành tựu ở nơi bàn tay?”

 

272.“Trưc đây ta đã là thợ may. Khi ấy ta ở Bheruva, có sự sinh sống rất khó khăn, nghèo khó; ta không có gì để bố thí.

 

273.Nơi làm việc của ta đã ở khu vực lân cận với Asayha, là người thí chủ có đc tin, đã làm việc phước thiện, có liêm sỉ.

 

274.Tại nơi ấy, những kẻ hành khất, những người nghèo túng thuộc phe nhóm khác nhau đi đến. Và họ hỏi ta về chỗ trú ngụ của Asayha.

 

275.‘Chúng tôi sẽ đi đến nơi đâu? Chúc bạn tốt lành. Nơi nào vt thí đưc ban phát?’ Được họ hỏi, ta sẽ nói cho họ chỗ trú ngụ của Asayha.

 

276.Sau khi duỗi ra cánh tay phải, (nói rằng): ‘Các người hãy đi đến nơi y. Chúc các người tốt lành. Nơi ấy vật thí được ban phát, ở chỗ trú ngụ của Asayha.’

 

277.Do việc ấy bàn tay có sự ban cho điu ước muốn, do việc ấy bàn tay có nguồn mật ngọt, do hạnh kiểm cao đẹp ấy của ta mà phưc báu được thành tựu ở nơi bàn tay.”

 

278.“Nghe rằng ngài đã không tự tay mình ban phát vật thí đến bất cứ ai, trong khi tùy hỷ sự bố thí của ngưi khác, ngài đã duỗi bàn tay ra và chỉ lối.

 

279.Do việc ấy bàn tay có sự ban cho điu ước muốn, do việc ấy bàn tay có nguồn mật ngọt, do hạnh kiểm cao đẹp ấy của ngài mà phưc báu được thành tựu ở nơi bàn tay.

 

280.Thưa ngài, được tịnh tín, người ấy đã tự tay mình ban phát vật thí, vậy sau khi từ bỏ thân xác loài ngưi, người ấy đã đi đến phương trời nào?”

 

281.“Ta không biết được việc đi hay là vic đến của Aṅgīrasa, bậc chịu đng điều không thể chịu đng, nhưng ta đã được nghe trong sự hiện diện của (Thiên Vương) Vessavaṇa rằng Asayaha đã đi đến cộng trú với (Chúa Trời) Sakka.”

 

282.“Quá đ để làm việc tốt lành, để ban phát vật thí tùy theo khả năng. Sau khi nhìn thấy bàn tay có sự ban cho điu ước muốn, người nào mà chẳng làm việc phước thiện?

 

283.Đương nhiên, chính tôi đây sau khi t nơi này ra đi và sau khi v đến Dvāravatī, tôi sẽ tiến hành việc bố thí, là việc mang lại sự an lạc cho tôi.

 

284.Tôi sẽ bố thí cơm ăn và nước uống, vải vóc và chỗ trú ngụ, trạm bố thí nước uống, giếng nước, và các lối vượt qua ở nơi hiểm trở.”

 

285.“Do điều gì mà ngươi có ngón tay cong queo, có khuôn mặt bị làm thành méo mó, và các con mắt rỉ nước, việc xấu xa gì đã do ngươi gây ra?” [19]

 

286.“Trong lúc gia chủ Aṅgīrasa có đc tin đang  nhà, tôi đã là người chủ chốt trong việc bố thí ở nơi phân phát thc ăn của ông ấy.

 

287.Ở tại nơi ấy, sau khi nhìn thấy những người hành khất có nhu cầu về thức ăn đi đến, tôi đã tránh sang một bên rồi đã làm khuôn mặt méo mó.

 

288.Do điều ấy mà tôi có ngón tay cong queo, có khuôn mặt bị làm thành méo mó, và các con mắt rỉ nước, việc xấu xa ấy đã do tôi gây ra.”

 

289.“Này kẻ tội lỗi, ngươi có ngón tay cong queo, có khuôn mặt bị làm thành méo mó, và các con mắt rỉ nưc là đúng theo pháp, bởi vì ngươi đã làm khuôn mặt méo mó đối với việc bố thí của người khác.”

 

290.“Tại sao trong khi ban phát vật thí về cơm ăn, nước uống, vật thực cứng, vải vóc, và chỗ trú ngụ, mà lại có thể nhờ cậy người khác?”[20]

 

291.“Đương nhiên, chính tôi đây sau khi t nơi này ra đi và sau khi v đến Dvāravatī, tôi sẽ tiến hành việc bố thí, là việc mang lại sự an lạc cho tôi.

 

292.Tôi sẽ bố thí cơm ăn và nước uống, vải vóc và chỗ trú ngụ, trạm bố thí nước uống, giếng nước, và các lối vượt qua ở nơi hiểm trở.”

 

293.Từ nơi ấy, sau khi quay trở về và đã đt đến Dvāravatī, vị Aṅkura ấy đã tiến hành việc bố thí, là việc mang lại sự an lạc cho bản thân.

 

294.Aṅkura đã bố thí cơm ăn và nước uống, vải vóc và chỗ trú ngụ, trạm bố thí nước uống, và giếng nước với tâm ý thanh tịnh.

 

295.‘Ai đói? Và ai khát? Ai sẽ mặc vải vóc? Những con thú kéo xe của ai bị mệt nhọc, hãy chọn những con thú ở đây thắng vào cỗ xe.

 

296.Ai muốn lọng che và vật thơm? Ai tràng hoa? Ai giày dép?’ Nhng người thợ cạo, đầu bếp, và buôn bán hương liu luôn rao vang như thế, ban đêm và ban ngày,  nơi ấy, tại chỗ trú ngụ của Aṅkura.

 

297.“‘Aṅkura ngủ an lạc,’ dân chúng biết về ta như vậy. Này Sindhaka, ta ngủ khổ sở bởi vì ta không nhìn thấy các hành khất.

 

298.‘Aṅkura ngủ an lạc,’ dân chúng biết về ta như vậy. Này Sindhaka, ta ngủ khổ sở khi các người nghèo túng là ít ỏi.”

 

299.“Nếu Sakka, Chúa Tể cõi Ba Mươi Ba và toàn thể thế gian, ban cho ngài điu ước muốn, thì trong khi ước muốn, ngài sẽ ước muốn điu ước muốn về việc gì?”

 

300.“Nếu Sakka, Chúa Tể cõi Ba Mươi Ba, ban cho ta điu ước muốn thì: vào thời đim ta đang thức dậy là lúc mọc lên của mặt trời, có các món ăn của cõi Trời hiện ra và các hành khất là có giới hạnh.

 

301.Khi ta đang bố thí thì (vật thí) không bị cạn kiệt, sau khi bố thí thì ta không hối tiếc, trong khi bố thí thì tâm được tịnh tín, ta ước muốn điu ước muốn của Sakka là như thế.”

 

302.“Không nên ban bố tất cả của cải cho kẻ khác, nên ban phát vật thí và nên bảo vệ tài sản; chính vì thế tài sản hiển nhiên là hơn sự bố thí, với sự ban phát quá mức thì các gia đình không còn tồn tại.[21]

 

303.Các bậc sáng suốt không khen ngợi việc không bố thí và việc bố thí quá mức; chính vì thế tài sản hiển nhiên là hơn sự bố thí; người có bản tính sáng suốt nên hành xử theo lối trung dung.”

 

304.“Ôi, thật vậy sao, thưa ông. Tôi sẽ còn bố thí, bởi vì những người tốt, các bậc chân nhân sẽ cộng sự với tôi, tựa như cơn mưa đang làm tràn đầy những vùng đất trũng, tôi nên làm cho tất cả những ngưi nghèo túng được toại ý.

 

305.Người nào sau khi nhìn thấy các hành khất mà có vẻ mặt tươi tắn, sau khi bố thí mà có tâm ý hoan hỷ; điều ấy là hạnh phúc của ngưi đang sống tại gia.

 

306.Người nào sau khi nhìn thấy các hành khất mà có vẻ mặt tươi tắn, sau khi bố thí mà có tâm ý hoan hỷ; điều ấy là sự thành công của việc dâng hiến.

 

307.Ngay trước khi bố thí có tâm hoan hỷ, trong khi bố thí nên làm cho tâm được tịnh tín, và sau khi đã bố thí có tâm hoan hỷ; điều ấy là sự thành công của việc dâng hiến.”

 

308.“Bữa ăn thưng xuyên được bố thí cho mọi người ở chỗ trú ngụ của Aṅkura, con người mong mỏi việc dâng hiến, là sáu mươi ngàn cỗ xe.[22]

 

309.Ba ngàn đầu bếp chính, có các bông hoa tai bằng ngọc ma-ni đã được trau chuốt, sống phụ thuộc vào Aṅkura, bận rộn với vật dâng hiến trong việc bố thí.

 

310.Sáu mươi ngàn người nam, là các thanh niên, có các bông hoa tai bằng ngọc ma-ni đã được trau chuốt, bổ củi ở cuộc đại thí của Aṅkura.

 

311.ời sáu ngàn phụ nữ, những ngưi đàn bà đã đưc điểm trang với mọi thứ trang sức, nhồi trộn các món (gia vị) ở cuộc đại thí của Aṅkura.

 

312.ời sáu ngàn phụ nữ đã đưc điểm trang với mọi thứ trang sức, cầm thìa phục vụ ở cuộc đại thí của Aṅkura.

 

313.Vị Sát-đế-lỵ đã ban phát nhiều (vật) đến nhiều (ngưi), đã tự tay ban phát trong một thời gian dài, một cách nghiêm chỉnh, sau khi đã thể hiện sự tôn trọng, lần này đến lần khác.

 

314.Aṅkura đã tiến hành cuộc đại thí trong khoảng thời gian dài, trong nhiều tháng, nhiều nửa tháng, nhiều mùa, và nhiều năm.

 

315.Aṅkura đã bố thí và dâng hiến như vậy trong khoảng thời gian dài, sau khi từ bỏ thân xác loài người, vị ấy đã đi đến cõi Ba Mươi Ba.”

 

316.“Indaka đã dâng phần thức ăn một muỗng đến ngài Anuruddha, sau khi từ bỏ thân xác loài người, vị ấy đã đi đến cõi Ba Mươi Ba.

 

317.Indaka sáng chói vượt trội Aṅkura về mưi phương diện: về sắc, về thinh, về vị, về hương, về xúc làm thích ý, ...

 

318.... về tuổi thọ, luôn cả về danh tiếng, về sắc đẹp, về hạnh phúc, và về quyền hành; Indaka sáng chói vượt trội Aṅkura.”

 

319.“Này Aṅkura, cuộc đi thí đã đưc ngươi bố thí trong thời gian dài. Ngươi ngồi quá xa, hãy tiến đến gần Ta.”

 

320.Ở cõi Ba Mươi Ba, khi y đức Phật, bậc Tối Thưng Nhân, đã trú ngụ ở gốc cây san hô, nơi tng đá Paṇḍukambala.

 

321.Chư Thiên  mười (ngàn) thế giới tụ hội lại hầu cận đng Toàn Giác đang cư ngụ ở đỉnh ngọn núi.

 

322.Không có vị Thiên nhân nào sáng chói vượt trội đấng Toàn Giác về màu da; sau khi vượt trội tất cả chư Thiên, ch đấng Toàn Giác chói sáng.

 

323.Khi ấy, Aṅkura ấy đã ở cách mười hai do-tuần, còn Indaka chói sáng vượt trội ở không xa đức Phật lắm.

 

324.Sau khi quan sát Aṅkura luôn cả Indaka, đấng Toàn Giác, trong lúc nhấn mạnh về đi tượng xứng đáng cúng dưng, đã nói lời nói này:

 

325.‘Này Aṅkura, cuộc đi thí đã đưc ngươi bố thí trong thời gian dài. Ngươi ngồi quá xa, hãy tiến đến gần Ta.’

 

326.Được khích lệ bởi bậc có bản thân đã được tu tập, Aṅkura đã đáp lại lời này: ‘Con được gì với sự bố thí ấy, khi có tình trạng thiếu vắng đi tượng xứng đáng cúng dường?

 

327.Dạ-xoa Indaka này đây sau khi dâng cúng vật thí chút ít thì chói sáng vượt trội chúng con, giống như mt trăng ở quần thể các vì sao.’

 

328.‘Giống như hạt giống, dẫu nhiều, đã được gieo ở thửa ruộng cằn cỗi, kết quả là không dồi dào, cũng không làm người nông phu vui mừng.

 

329.Tương t y như thế, nhiều vật thí đã được thiết lập ở những kẻ có giới tồi, quả báo là không dồi dào, cũng không làm người thí chủ vui mừng.

 

330.Cũng giống như hạt giống, dẫu ít, đã được gieo ở thửa ruộng màu mỡ, khi đưc ban cho mưa đu đặn, kết quả khiến người nông phu vui mừng.

 

331.Tương t y như thế, hành động dầu nhỏ nhoi được làm ở các vị có giới có đức hạnh như thế ấy, phước báu là có kết quả lớn lao.’

 

332.Sau khi cân nhắc vật thí nên được bố thí nơi nào khiến vật đã được bố thí có quả báo lớn lao, các thí chủ, sau khi cân nhắc rồi dâng cúng vật thí, đi đến cõi Trời.

 

333.Sự bố thí sau khi cân nhắc đưc đấng Thiện Thệ khen ngợi. Những vị nào là đi tượng xứng đáng cúng dường ở thế giới sinh vật này đây, các vt đã được bố thí ở những vị ấy có những quả báo lớn lao, giống như các hạt giống đã được gieo ở thửa ruộng tốt.”

Chuyện Ngạ Quỷ của Aṅkura là thứ chín. 

2. 10 Chuyện Ngạ Quỷ - Mẹ của Uttara

 

334.Khi vị tỳ khưu đã đi đến chỗ nghỉ trưa và đã ngồi xuống ở bờ sông Gaṅgā, có nữ ngạ quỷ xấu xí, với dáng vẻ ghê rợn, đã bưc đến gần vị ấy.

 

335.Mái tóc của cô ấy rất dài rủ xuống đến mặt đt. Được che phủ bằng mái tóc, cô ấy đã nói với vị Sa-môn điều này:

 

336.“Năm mươi lăm năm kể từ khi tôi từ trần, tôi không biết đến việc đã đưc ăn hoặc ngay cả việc đã được uống nưc. Thưa ngài, xin ngài hãy cho nước uống, tôi bị khát, tôi cần nước uống.”

 

337.“Sông Gaṅgā này có nước mát chảy ra từ núi Hi-mã-lạp. Hãy lấy (nước) từ nơi ấy rồi uống, việc gì ngươi lại cầu xin ta nước uống?”

 

338.“Thưa ngài, nếu tôi tự mình lấy nước uống từ sông Gaṅgā, nó biến thành máu đối với tôi, vì thế tôi cầu xin nước uống.”

 

339.“Vậy ác hạnh gì đã được làm, bởi thân bởi khẩu bởi ý? Do quả thành tựu của nghiệp gì mà sông Gaṅgā tr thành máu đối với ngươi?”

 

340.“Con trai tôi tên Uttara, có đc tin, đã là cận sự nam. Và không theo sự mong muốn của tôi, nó đã cúng dưng đến các vị Sa-môn (các vật):

 

341.Y phục và vật thực, vật dụng, chỗ nằm ngồi. Bị khó chịu vì tính bỏn xẻn, tôi mắng nhiếc nó rằng:

 

342.‘Vật nào mà con đã cúng dưng đến các vị Sa-môn không theo sự mong muốn của mẹ là y phục và vật thực, vật dụng, chỗ nằm ngồi, ...

 

343.... này Uttara, vật ấy hãy trở thành máu đối với con trong kiếp sống kế tiếp.’ Do quả thành tựu của nghiệp ấy mà sông Gaṅgā tr thành máu đối với tôi.” 

Chuyện Ngạ Quỷ - Mẹ của Uttara là thứ mười.[23]

 2.  11 Chuyện Ngạ Quỷ ở Hồ Kaṇṇamuṇḍa

 

344.“Trưc đây, thiếp đã dâng cúng chỉ sợi đến bậc xuất gia là vị tỳ khưu đã đi đến yêu cầu. Quả thành tựu của việc ấy là quả báo dồi dào được thành tựu, và nhiều koṭi[24] vải vóc đưc phát sanh đến thiếp.’

 

345.Thiên cung được rải rắc bông hoa, đưc vui sướng, có nhiều tranh vẽ, đưc các ngưi nam người nữ lai vãng. Thiếp đây hưởng thụ và choàng đắp (vải vóc); có nhiều của cải và còn chưa đến lúc bị cạn kiệt.

 

346.Tiếp theo quả thành tựu của chính nghiệp ấy, có sự an lạc và thoải mái được thành tựu ở nơi đây. Thiếp đây, sau khi đi đến cõi nhân loại thêm lần nữa, sẽ làm các việc phước thiện. Thưa công tử, hãy đưa thiếp về.”

 

347.“Nàng đã đến đây được bảy trăm năm.  nơi ấy, nàng sẽ là ngưi già nua và trưng thượng, hết thảy tất cả thân quyến của nàng đã từ trần. Nàng sẽ làm gì sau khi từ đây đi đến nơi ấy?”

 

348.“Thiếp đã đi đến nơi này chỉ mới bảy năm, thiếp đã có được sự an lạc của cõi Trời. Thiếp đây, sau khi đi đến cõi nhân loại thêm lần nữa, sẽ làm các việc phước thiện. Thưa công tử, hãy đưa thiếp về.”

 

349.Sau khi đã nắm lấy nàng một cách chắc chắn ở cánh tay, vị ấy đã đưa nàng, (nay là) bà lão vô cùng yếu ớt, trở về (dặn rằng): “Nàng hãy nói với những người khác nữa đã đi đến nơi này rằng: ‘Quý vị hãy làm các việc phước thiện, sự an lạc (sẽ) được thành tựu.

 

350.Tôi đã nhìn thấy các ngạ quỷ bị sầu khổ do không làm việc tốt lành, loài ngưi cũng tương t như vậy. Và sau khi tạo nghiệp đưa đến cảm thọ an lạc, chư Thiên và nhân loại là dòng dõi trụ vững trong sự an lạc.’”

 Chuyện Ngạ Quỷ Sợi Chỉ là thứ mười một.

2. 12 Chuyện Ngạ Quỷ ở Hồ Kaṇṇamuṇḍa

 

351.Các bậc cấp của cầu thang bằng vàng được trải cát bằng vàng, các bông súng trắng ở nơi ấy dễ thương, có mùi thơm tinh khiết, làm thích ý.[25]

 

352.(Hồ nưc) được che phủ bởi nhiều cây cối khác nhau, được lan tỏa với nhiều mùi thơm khác nhau, được che phủ bởi nhiều loại sen khác nhau, được trải rộng với những cây sen trắng.

 

353.(Hồ nưc) đưc lay động bởi làn gió, tự tỏa ra các hương thơm, làm hài lòng, với những tiếng kêu của chim thiên nga và chim cò, với những tiếng hót của loài hồng hạc.

 

354.(Hồ nưc) đưc đông đảo bởi những bầy chim khác nhau đã kết thành nhóm có âm giọng khác nhau, có những cây trổ các loại quả khác nhau, có những khu rừng đơm hoa khác loại.

 

355.Thành phố này như vầy không giống với bất cứ nơi nào ca loài người. Nàng có nhiều tòa lâu đài làm bằng vàng và bạc.

 

356.Trong lúc tỏa sáng rực rỡ, các tòa lâu đài chiếu sáng bốn phương  xung quanh. Nàng có năm trăm nữ tỳ là những người nữ hầu cận cho nàng.

 

357.Các cô ấy có mang vòng và xuyến, đưc điểm trang với vòng hoa đi đầu bằng vàng. Nàng có nhiều chiếc ghế dài làm bằng vàng và bạc.

 

358.Chúng được bao phủ bằng da của loài nai kadali, được chuẩn bị sẵn, được trải tấm thảm len lông dài, nơi ấy nàng đến nằm nghỉ, có sự thành tựu đy đủ mọi lạc thú.

 

359.Đến lúc nửa đêm, t nơi y nàng đứng dậy ra đi. Nàng đã đi đến khu vực vườn hoa bao quanh hồ nước.

 

360.Rồi nàng đứng lại ở bờ hồ, nơi có c non xanh xinh đẹp. Kế đó, có con chó bị xẻo tai cắn xé từng phần thân thể của nàng.

 

361.Và khi đã bị nhai ngấu nghiến, đã bị làm thành bộ xương, nàng đã chìm sâu trong hồ nước, và thân thể (nàng) trở lại giống như trưc đây.

 

362.Sau đó, nàng có thân thể phục hồi toàn vẹn, vô cùng xinh xắn, có dáng vẻ đáng yêu. Sau khi đã trùm lại bằng vải vóc, nàng đi đến gần bên ta.

 

363.Vậy ác hạnh gì đã được làm, bởi thân bởi khẩu bởi ý? Do quả thành tựu của nghiệp gì mà con chó bị xẻo tai lại cắn xé từng phần thân thể của nàng?”

 

364.“Ở Kimbilā đã có người gia chủ là người cận sự nam có đức tin. Thiếp đã là vợ của ông ấy, có giới hạnh xấu xa, là kẻ phụ tình.

 

365.Trong khi thiếp phụ tình, ông ấy đã nói với thiếp điều này: ‘Việc nàng phụ tình tôi, việc ấy không đúng đắn, không tốt đẹp.’

 

366.Và thiếp đây đã nói lời thề ghê rợn và là lời nói dối: ‘Thiếp không phụ tình chàng bằng thân hay bằng ý.

 

367.Nếu thiếp phụ tình chàng bằng thân hay bằng ý, hãy để cho con chó bị xẻo tai cắn xé từng phần thân thể của thiếp.’

 

368.Quả thành tựu của cả hai, của nghiệp ấy và của việc nói dối, thiếp đã chịu đựng bảy trăm năm kể từ khi ấy, và con chó bị xẻo tai cắn xé từng phần thân thể của thiếp.

 

369.Và tâu bệ hạ, ngài có nhiều ân đc, ngài đã đi đến đây vì lợi ích của thiếp. Thiếp đã khéo được thoát khỏi hồ Kaṇḍamuṇḍa, không còn sầu muộn, không có sự sợ hãi từ bất cứ đâu.

 

370.Tâu bệ hạ, thiếp xin lễ bái ngài, thiếp chắp tay cầu xin ngài. Tâu bệ hạ, xin ngài hãy thọ hưởng các dục lạc không phải của loài người, xin ngài hãy cùng với thiếp vui thú.”

 

371.“Trẫm đã thọ hưởng các dục lạc không phải của loài người, trẫm đã được cùng nàng vui thú. Hỡi cô nàng có phước phần, trẫm cầu xin nàng, này hãy mau mau đưa trẫm trở về.”

 Chuyện Ngạ Quỷ ở Hồ Kaṇṇamuṇḍa là thứ mười hai.[26]

2. 13 Chuyện Ngạ Quỷ của Ubbarī

 

372.Xưa có đức vua Brahmadatta, vị chúa của các kỵ sĩ thuộc xứ sở Pañcāla. Khi ấy, sau khi trải qua những ngày và đêm, đc vua đã từ trần.

 

373.Người vợ Ubbarī đã đi đến nơi hỏa táng của vị ấy than khóc. Trong khi không nhìn thấy Brahmadatta, nàng than khóc rằng: “Ôi Brahmadatta!”

 

374.Và vị ẩn sĩ ở nơi ấy, bậc hiền trí đy đ đức hạnh, đã đi đến. Và ở nơi ấy, vị ấy đã hỏi những ngưi đã tụ tập ở nơi ấy rằng:

 

375.“Đài hỏa táng này là của ai mà được tỏa ra với nhiều mùi thơm khác nhau? Nàng này là vợ của ai mà than khóc người chồng đã từ nơi này đi xa?

 

376.Trong khi không nhìn thấy Brahmadatta, nàng than khóc rằng: ‘Ôi Brahmadatta!’” Và những ngưi đã tụ tập ở nơi ấy, họ đã giải thích về việc ấy rằng:

 

377.“Thưa ngài đi đức, là của (đc vua) Brahmadatta. Thưa tôn ông, là ca (đc vua) Brahmadatta. Đài hỏa táng này là của vị ấy nên được tỏa ra với nhiều mùi thơm khác nhau.

 

378.Nàng này là vợ của vị ấy nên than khóc chồng đã từ nơi này đi xa. Trong khi không nhìn thấy Brahmadatta, nàng than khóc rằng: ‘Ôi Brahmadatta!’”[27]

 

379.“Tám mươi sáu ngàn ngưi có tên là Brahmadatta đã đưc thiêu đốt ở đài hỏa táng này, nàng sầu muộn cho ai trong số những người ấy?”

 

380.“Thưa ngài, v nào là đức vua, con trai của Cūanī, vị chúa của các kỵ sĩ thuộc xứ sở Pañcāla, tôi sầu muộn cho vị ấy, người chồng đã ban cho mọi điu ước muốn.”

 

381.“Toàn thể tất cả đã là các vị vua, đều có tên là Brahmadatta. Toàn thể tất cả đều là con trai của Cūanī, là những vị chúa của các kỵ sĩ thuộc xứ sở Pañcāla.

 

382.Nàng đã làm chánh hậu của tất cả theo tuần tự, tại sao nàng lại từ bỏ những ngưi trước kia mà chỉ sầu muộn cho người sau cùng?”

 

383.“Thưa tôn ông, ngài nói về tôi đây đã là người nữ nhiều lần trong sự luân hồi, có phải bản thân tôi đã là người nữ trong thời gian dài?”

 

384.“Nàng đã là người nữ, nàng đã là ngưi nam, nàng cũng đã đi đến ở bào thai của loài thú, việc ấy là như vy, (nhưng) không được xem là giới hạn của những kiếp quá khứ.”

 

385.“Quả thật, trong khi tôi đang b thiêu đốt tựa như ngọn lửa đưc rưi bơ lỏng, tôi có thể dập tắt tất cả nỗi buồn bực như là đang rưi nước xuống.

 

386.Quả vậy, mũi tên sầu muộn cắm ở tim của tôi đã được nhổ lên, trong khi tôi bị ưu phiền vì nỗi sầu muộn, ngài đã xua tan nỗi sầu muộn về người chồng cho tôi.

 

387.Tôi đây, vi mũi tên đã đưc rút ra, có được trạng thái mát mẻ, được an tịnh. Thưa bc đại hiền trí, sau khi lắng nghe ngài, tôi không sầu muộn, tôi không khóc than.”

 

388.“Sau khi lắng nghe lời nói ấy của của vị ấy, lời đã được khéo nói của vị Sa-môn, nàng đã cầm lấy bình bát và y, rồi đã xuất gia sống đời không nhà.[28]

 

389.Và nàng ấy, trong khi đã được xuất gia, rời nhà sống không nhà, đã tu tập tâm từ nhằm đt đến thế giới Phạm Thiên.

 

390.Trong khi lang thang từ làng này sang làng khác, đến các thị trấn, các kinh thành, nàng đã từ trần ở ngôi làng tên Uruvelā.

 

391.Sau khi phát triển tâm từ nhằm đt đến thế giới Phạm Thiên, sau khi xa lìa tâm của người nữ, nàng đã đi đến thế giới Phạm Thiên.”

 Chuyện Ngạ Quỷ của Ubbarī là thứ mười ba.

 Phẩm Ubbarī là thứ nhì.

 

*****

 

TÓM LƯỢC PHẨM NÀY

(Ngạ quỷ) vàng vọt, người mẹ, và người chồng, Nandā, Maṭṭakuṇḍalī, Ghaṭa (Kaṇha), hai người đại phú, người thợ may (Aṅkura), nghỉ trưa (Mẹ của Uttara), chỉ sợi, cầu thang (hồ Kaṇṇamuṇḍa), Ubbarī.

 --ooOoo--

 [1] Vị tỳ khưu tên Nārada này ngụ tại núi Gijjakūṭa, trên đường đi vào thành Rājagaha để khất thực vào sáng sớm, đã gặp ngạ quỷ có mõm heo này và đã nêu lên câu hỏi (PvA, 10).

[2] Tựa đề của câu chuyện này đúng ra phải là Pañcaputtakhādaka-petivatthu - Chuyện Nữ Ngạ Quỷ Ăn Năm Đứa Con Trai; sự khác biệt là ở chữ peta (nam tánh) và peti (nữ tánh).

[3] Tựa đề của câu chuyện này đúng ra phải là Sattaputtakhādaka-petivatthu - Chuyện Nữ Ngạ Quỷ Ăn Bảy Đứa Con Trai.

[4] Tựa đề của câu chuyện này đúng ra phải là Mahāpesakārapetivatthu - Chuyện Nữ Ngạ Quỷ và Người Chủ Thợ Dệt.

[5] Tựa đề của câu chuyện này đúng ra phải là Khallāṭiyapetivatthu - Chuyện Nữ Ngạ Quỷ Sói Đầu.

[6] Câu chuyện này tương tự như Bổn Sanh Uragajātakaṃ, (TTPV tập 32, các câu kệ 726-735). Hai câu kệ 85-86 là lời của người cha, hai câu kệ kế tiếp là lời của người mẹ, sau đó là lời của người em gái, của người vợ góa, và cuối cùng là lời của người tớ gái (PvA, 61-66).

[7] Tựa đề của câu chuyện này đúng ra phải là Saṃsāramocakapetivatthu - Chuyện Nữ Ngạ Quỷ Saṃsāramocaka.

[8] Upatissa là tên gọi của ngài Sāriputta, Kolita là tên gọi của ngài Moggallāna (ND).

[9] Tựa đề của câu chuyện này đúng ra phải là Sāriputtattherassa mātupetivatthu - Chuyện Nữ Ngạ Quỷ - Mẹ của Trưởng Lão Sāriputta.

[10] Kapikacchu: loại cây có lá và trái gây ngứa.

[11] Tựa đề của câu chuyện này đúng ra phải là Mattāpetivatthu - Chuyện Nữ Ngạ Quỷ Mattā.

[12] Tựa đề của câu chuyện này đúng ra phải là Nandāpetivatthu - Chuyện Nữ Ngạ Quỷ Nandā.

[13] Câu chuyện này giống như câu chuyện Thiên Cung của Maṭṭakuṇḍalī ở Vimānavatthupāḷi - Chuyện Thiên Cung (các trang 198-203).

[14] Ba câu kệ 193-195 là lời vị Bà-la-môn ca ngợi người thanh niên (Sđd. 326).

[15] Đức vua Ajātasattu nhìn thấy ngạ quỷ này vào ban đêm, lõa lồ, không có tóc, tưởng là vị sa-môn, nên đã hỏi như thế (Sđd. 105).

[16] Người thương buôn Bà-la-môn đi chung đoàn xe có ý định xấu, muốn cưỡng bức vị Dạ-xoa đi theo đoàn xe vì vị ấy đã giúp cho đoàn xe khỏi bị đói khát bằng chính khả năng của mình. Aṅkura đã tranh cãi về thái độ đối xử này ở các câu kệ kế tiếp (Sđd. 112).

[17] Văn bản Petvavatthupāḷi của Miến Điện và Anh quốc không ghi câu kệ này. Câu kệ này cũng được thấy ở Dhammapadapāḷi - Pháp Cú, câu kệ 125.

[18] Vị Dạ-xoa đang trao đổi với Aṅkura (Sđd. 117).

[19] Trên đường về, Aṅkura nhìn thấy một ngạ quỷ khác và đã hỏi câu hỏi này (Sđd. 123).

[20] Câu kệ này Aṅkura quay sang trách móc người chủ thí, còn hai câu kệ kế tiếp là tự nhủ với bản thân (Sđd. 125).

[21] Người đàn ông tên Sonaka ngồi tại chỗ ấy đã xen vào với hai câu kệ (Sđd. 129).

[22] Từ đây trở đi là do các vị tham gia cuộc Kết Tập thuật lại (Sđd. 129).

[23] Tựa đề của câu chuyện này đúng ra phải là Uttaramātupetivatthu - Chuyện Nữ Ngạ Quỷ Mẹ của Uttara.

[24] 1 koṭi = 10000.000 (10 triệu).

[25] Vị vua ở Bārāṇasī đã bị nữ ngạ quỷ dùng mưu chước dẫn dắt đến hồ Kaṇḍamuṇḍa để chung sống với nàng. Những câu kệ này mô tả sự ngạc nhiên của vị vua ấy khi đi đến khu vực hồ nước ấy. Sau một thời gian sống chung, vị vua ấy khám ra sự thật về người bạn tình và ngỏ ý muốn trở về lại vương quốc (Sđd.151-160).

[26] Tựa đề của câu chuyện này đúng ra phải là Kaṇṇamuṇḍapetivatthu - Chuyện Nữ Ngạ Quỷ ở hồ Kaṇṇamuṇḍa.

[27] Sáu câu kệ trên, 372-378, là của các vị tham gia cuộc Kết Tập (Sđd. 162). Từ câu 379 trở đi là lời đối thoại giữa vị ẩn sĩ và hoàng hậu Ubbarī (Sđd. 164).

[28] Bốn câu kệ sau cùng, 388-391, là lời của đức Phật (Sđd. 167).



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada