Ở làng hay tại rừng,
Chỗ nào được an lạc,
Với người có trí thức,
Là chỗ sanh, chỗ lớn.
Chỗ nào có sự sống,
Hãy đi đến chỗ ấy,
Tốt hơn chỗ trú ẩn
Ðem lại sự hủy diệt.

209. Tañca appañca ucchiṭṭhaṃ tañca kicchena no adā, sohaṃ brāhmaṇajātiko maṃ bhuttaṃ tampi uggataṃ. 

209. “Vật ấy là ít ỏi và còn thừa lại, và nó đã cho vật ấy một cách khó khăn. Ta đây là dòng dõi Bà-la-môn, vật nào đã được ăn vào, vật ấy cũng đã bị trào ra.” 

Nhỏ thay, dư tàn ấy,
Nó cho rất khó khăn!
Ta sanh là Phạm chí,
Món ăn, bị nôn ra.

210. Evaṃ dhammaṃ niraṃ katvā yo adhammena jīvati, satadhammova lābhena laddhenapi na nandatī ”ti.

9. Satadhammajātakaṃ. 

210. “Sau khi đã bất chấp Giáo Pháp như vậy, kẻ nào sống theo phi pháp, tựa như Satadhamma, cũng không vui thích với lợi lộc đã nhận được.”



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada