Ai từng nghe hoặc thấy
Khỉ nào có giới đức?
Nay thả phân đầu ngươi,
Thói chúng ta là vậy.
201. Sabbesu kira bhūtesu santi sīlasamāhitā, passa sākhā migaṃ jammaṃ ādiccamupatiṭṭhati.
201. “Nghe nói trong số tất cả các chúng sanh, có những người chuyên tâm về giới. Hãy nhìn xem con khỉ hèn hạ này, nó đứng hầu mặt trời.”
Nghe nói mọi chúng sanh
Ðều có giữ giới hạnh,
Hãy xem vượn khốn khổ
Sống ở trên cành này,
Ðang đảnh lễ mặt trời.
202. Nāssa sīlaṃ vijānātha anaññāya pasaṃsatha, aggihuttañca ūhantaṃ dve ca bhinnā kamaṇḍalū ”ti.
5. Ādiccupaṭṭhānajātakaṃ.
202. “Các người không nhận biết giới hạnh của nó, các người không biết rõ nên khen ngợi nó. Bởi nó, việc thờ phượng ngọn đã bị thải phân và hai vò nước đã bị đập bể.”
5. Bổn sanh Đứng Hầu Mặt Trời
Không biết tánh hạnh nó,
Các người cứ ngợi khen,
Nó làm bẩn lửa thiêng,
Ðập vỡ các ghè nước.
203. Bālo vatāyaṃ dumasākhagocaro paññā janinda nayimassa vijjati, kaḷāyamuṭṭhiṃ avakiriya kevalaṃ ekaṃ kaḷāyaṃ patitaṃ gavesati.
203. “Con thú này, sinh sống ở cành cây, quả thật ngu si, tâu quân vương, trí tuệ của loài thú này không có. Sau khi quăng bỏ toàn bộ nắm tay hạt đậu, nó tìm kiếm một hạt đậu đã bị rơi mất.”
Thưa Nhân chủ, vượn này
Ngu si sống trên cành,
Trí tuệ nó không có,
Nó đã quăng tất cả
Nắm đậu nằm trong tay,
Ðể tìm một hột rơi.
204. Evameva mayaṃ rāja ye caññe atilobhino, appena bahu jiyyāma kaḷāyeneva vānaro ”ti.
6. Kaḷāyamuṭṭhijātakaṃ.
204. “Tâu bệ hạ, tương tự y như thế, chúng ta và những người khác là tham lam thái quá, vì chút ít chúng ta bị mất mát nhiều, tựa như là con khỉ với hạt đậu.”
Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada