Chớ khinh thường kẻ thù,
Chớ tin tưởng bè bạn,
Từ không sợ, sợ sanh,
Cái gốc bị cắt đứt.

183. Upasāḷhakanāmānaṃ sahassāni catuddassa, asmiṃ padese daḍḍhāni natthi loke anāmataṃ.

183. “Mười bốn ngàn người có tên là Upasāḷhaka đã được thiêu đốt ở khu vực này. Không có chỗ nào ở trên thế gian là không có người chết. 

Có mười bốn ngàn người
Tên U-pa-sàl-ha,
Bị thiêu tại chỗ này
Không chỗ nào trên đời
Lại không có người chết.

184. Yamhi saccañca dhammo ca ahiṃsā saṃyamo damo, etadariyā sevanti etaṃ loke anāmatan ”ti.

6. Upasāḷhajātakaṃ.

184. Ở nơi nào có sự chân thật, có pháp (vô thượng), có sự không hãm hại, có sự chế ngự, có sự rèn luyện, nơi ấy được các Thánh nhân thân cận, nơi ấy ở trên thế gian là không có người chết.”

6. Bổn sanh Bà-la-môn Upasāḷha. 

Chỗ nào có chân lý,
Chánh pháp và bất hại,
Có tiết chế, điều ngự,
Chỗ ấy, bậc Thánh sống.
Chính chỗ ấy, thần chết
Không thể tìm lối vào.

Câu chuyện 166

185. Abhutvā bhikkhasi bhikkhu na hi bhutvāna bhikkhasi, bhutvāna bhikkhu bhikkhassu mā taṃ kālo upaccagā.

185. Này vị tỳ khưu, ngài hành pháp khất thực khi chưa thọ hưởng dục. Chẳng phải ngài nên thọ hưởng dục rồi mới hành pháp khất thực? Này vị tỳ khưu, ngài hãy thọ hưởng dục rồi hãy hành pháp khất thực, chớ để thời gian (hưởng dục) bỏ ngài mà đi!

Tỷ-kheo đi khuất thực,
Có biết hưởng dục chăng?
Chàng theo hạnh khất thực,
Không hưởng thọ dục lạc,
Tỷ-kheo, hãy hưởng dục,
Rồi sẽ hành khất thực,
Chàng chớ để thời gian
Trôi qua thật uổng phí.

186. Kālaṃ vohaṃ na jānāmi channo kālo na dissati, tasmā abhutvā bhikkhāmi mā maṃ kālo upaccagā ”ti.

7. Samiddhijātakaṃ.  

186. Quả thật ta không biết thời điểm (chết); thời điểm (chết) bị che đậy, không thấy được. Vì thế, ta không thọ hưởng dục và ta hành pháp khất thực, chớ để thời gian (hành pháp) bỏ ta mà đi!

7. Bổn sanh Trưởng Lão Samiddhi 

Thời chết, ta không biết,
Thời gian bị ngăn che,
Do vậy, không hưởng thọ,
Ta hành trì khất thực,
Ta không để thời gian
Trôi qua thật uổng phí.

Câu chuyện 167

187. Seno balasā patamāno lāpaṃ gocaraṭhāyinaṃ, sahasā ajjhappattova maraṇaṃ tenupāgami.

187. Con diều hâu, trong khi mạnh bạo lao xuống con chim cút đang đứng ở khu vực kiếm ăn, chính vì đã phóng đến một cách vội vã, vì thế, nó đã đi đến cái chết.

Diều hâu với sức mạnh
Sà xuống chụp con cút,
Con cút đang tìm mồi
Trên địa hạt của mình,
Vì sà chụp quá mạnh,
Diều hâu chết toi mạng.

188. Sohaṃ nayena sampanno pettike gocare rato, apetasattu modāmi sampassaṃ atthamattano ”ti.

8. Sakuṇagghijātakaṃ.

188. Đã thành tựu kế hoạch, ta đây thích thú ở khu vực kiếm ăn của cha ông. Với kẻ thù đã đi xa, ta vui thích, trong khi nhìn thấy sự lợi ích của mình.

8. Bổn sanh Chim Diều Hâu 

Ta biết phương tiện hay,
Vui trên địa hạt nhà,
Ta mừng kẻ thù bại,
Thọ hưởng lợi ích mình.

Câu chuyện 168

189. Yo ve mettena cittena sabbalokānukampati, uddhaṃ adho ca tirayañca appamāṇena sabbaso.

189. “Thật vậy, người nào có lòng thương tưởng đối với toàn thể thế gian–ở bên trên, ở bên dưới, và ở chiều ngang (loài người)–với tâm từ ái vô lượng về mọi mặt, –

Ai chính với Từ tâm
Thương xót mọi thế giới
Trên, dưới và bề ngang,
Vô lượng trùm tất cả.

190. Appamāṇaṃ hitaṃ cittaṃ paripuṇṇaṃ subhāvitaṃ, yaṃ pamāṇakataṃ kammaṃ na taṃ tatrāvasissatī ”ti.

9. Arakajātakaṃ.

190. – tâm vô lượng, hữu ích, tròn đủ, khéo được phát triển ấy sẽ không trú vào nơi ấy, vào hành động được làm có tính chất hạn lượng.”



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada