Do duyên của việc thực hiện sự thưa kiện, vị tỳ khưu ni là người nói lời tranh chấp vi phạm ba tội: Nói với người thứ nhất phạm tội dukkaṭa; nói với người thứ nhì phạm tội thullaccaya; vào lúc kết thúc vụ xử án, phạm tội saṅghādisesa.

Do duyên của việc tiếp độ nữ đạo tặc vi phạm ba tội: Do lời đề nghị, phạm tội dukkaṭa; do hai lời tuyên ngôn của hành sự, phạm các tội thullaccaya; vào lúc chấm dứt tuyên ngôn hành sự, phạm tội saṅghādisesa.

Do duyên của việc đi vào trong làng một mình vi phạm ba tội: Vị ni đi, phạm tội dukkaṭa; vưt qua hàng rào bước thứ nhất, phạm tội thullaccaya; vưt qua bước thứ nhì, phạm tội saṅghādisesa.

Do duyên của việc phục hồi cho vị tỳ khưu ni đã bị hội chúng hợp nhất phạt án treo theo Pháp theo Luật theo lời dạy của bậc Đo Sư, khi chưa xin phép hội chúng thực hiện hành sự và không quan tâm đến ước muốn của nhóm vi phạm ba tội: Do lời đề nghị, phạm tộidukkaṭa; do hai lời tuyên ngôn của hành sự, phạm các tội thullaccaya; vào lúc chấm dứt tuyên ngôn hành sự, phạm tội saṅghādisesa.

Do duyên của việc thọ thực, vị tỳ khưu ni nhiễm dục vọng sau khi tự tay thọ nhận vật thực cứng hoặc vật thực mềm từ tay của người nam nhiễm dục vọng vi phạm ba tội: Vị ni (nghĩ rằng): ‘Ta sẽ nhai, ta sẽ ăn’ rồi thọ nhận phạm tội thullaccaya; mỗi một lần nuốt xuống, phạm tội saṅghādisesa; vị ni thọ nhận nưc và tăm xa răng phạm tội dukkaṭa.

Do duyên của việc xúi giục rằng: ‘Này ni sư, ngưi đàn ông ấy nhiễm dục vọng hay không nhiễm dục vọng thì sẽ làm gì ni sư khi ni sư không nhiễm dục vọng? Này ni sư, ngưi đàn ông ấy dâng vật thực cứng hoặc vật thực mềm nào đến ni sư, ni sư cứ tự tay thọ nhận vật ấy rồi nhai hoặc ăn đi’ vi phạm ba tội: Do lời nói của vị ni ấy, vị ni kia (nghĩ rằng): ‘Ta sẽ nhai, ta sẽ ăn’ rồi thọ nhận, (vị ni xúi giục) phạm tội dukkaṭa; mỗi một lần (vị ni kia) nuốt xuống, (vị ni xúi giục) phạm tội thullaccaya; vào lúc chấm dứt bữa ăn, (vị ni xúi giục) phạm tội saṅghādisesa.

Do duyên của việc không chịu dứt bỏ với sự nhắc nhở đến lần thứ ba, vị tỳ khưu ni nổi giận vi phạm ba tội: Do lời đề nghị, phạm tội dukkaṭa; do hai lời tuyên ngôn của hành sự, phạm các tội thullaccaya; vào lúc chấm dứt tuyên ngôn hành sự, phạm tội saṅghādisesa.

Khi bị xử thua trong cuộc tranh tụng nào đó, do duyên của việc không chịu dứt bỏ với sự nhắc nhở đến lần thứ ba, vị tỳ khưu ni vi phạm ba tội: Do lời đề nghị, phạm tội dukkaṭa; do hai lời tuyên ngôn của hành sự, phạm các tội thullaccaya; vào lúc chấm dứt tuyên ngôn hành sự, phạm tội saṅghādisesa.

Do duyên của việc không chịu dứt bỏ với sự nhắc nhở đến lần thứ ba, các tỳ khưu ni thân cận (với thế tục) vi phạm ba tội: Do lời đề nghị, phạm tội dukkaṭa; do hai lời tuyên ngôn của hành sự, phạm các tội thullaccaya; vào lúc chấm dứt tuyên ngôn hành sự, phạm tộisaṅghādisesa.

Do duyên của việc không chịu dứt bỏ với sự nhắc nhở đến lần thứ ba, vị ni xúi giục rằng: ‘Này các ni sư, các vị hãy sống thân cận, các vị chớ có sống cách khác’ vi phạm ba tội: Do lời đề nghị, phạm tội dukkaṭa; do hai lời tuyên ngôn của hành sự, phạm các tội thullaccaya; vào lúc chấm dứt tuyên ngôn hành sự, phạm tội saṅghādisesa. ―(như trên)

Dứt mưi điều saṅghādisesa.

Nên được phân tích chi tiết theo như phn dưới,[9]

riêng phần nguyên nhân là có sự khác biệt.

*****

Do duyên của việc thọ dụng sữa đông sau khi đã yêu cầu vi phạm bao nhiêu tội? – Do duyên của việc thọ dụng sữa đông sau khi đã yêu cầu vi phạm hai tội: Vị ni (nghĩ rằng): ‘Ta sẽ nhai, ta sẽ ăn’ rồi nhận lãnh phạm tội dukkaṭa; mỗi một lần nuốt xuống, phạm tội pāidesanīya. Do duyên của việc thọ dụng sữa đông sau khi đã yêu cầu vi phạm hai tội này.

Dứt phần Bao Nhiêu Tội là thứ nhì.

[7] Chương này đưc đề cập riêng cho tỳ khưu ni: Tội thứ nhất là tội dành riêng cho tỳ khưu ni, tội thứ ba và thứ tư có tính cách tương tợ giữa tỳ khưu và t khưu ni du đưc quy định vào hai điều học khác nhau, tội thứ năm đưc đề cập ở giới bổn Pātimokkha của tỳ khưu nhưng là điều học đưc quy định chung cho cả hai hội chúng, riêng tội thứ nhì được xếp vào đây xét ra có tính cách gượng ép vì chỉ dành riêng cho tỳ khưu (ND).

[8] Đúng ra phải ghi là ‘vị tỳ khưu ni’ thay vì ‘vị tỳ khưu’ (ND).

[9] Có lẽ vào thời ấy, các phần đã đc xong đưc đặt ở dưới thấp nên mới ghi là ‘theo như phn dưới;’ còn theo cách đọc hiện nay, thì phải ghi là ‘theo như phần trên’ mới hợp lý (ND).

--ooOoo--



Phiên bản thư viện demo v4.5 [Tipiṭaka Tiếng Việt] Theravada